Việc cho các trẻ sinh thiếu tháng được bú sữa mẹ phần lớn trong tháng đầu tiên của cuộc đời dường như thúc đẩy não tăng trưởng mạnh mẽ. Các trẻ sinh non đã được nuôi ăn hàng ngày với ít nhất 50% là sữa mẹ có mô não và diện tích bề mặt vỏ não nhiều hơn vào ngày dự sinh của chúng so với các trẻ sinh non được cho bú sữa mẹ rất ít.
Nghiên cứu các trẻ nhũ nhi sinh thiếu tháng ở Đơn Vị Chăm Sóc Trẻ Sơ Sinh Tích Cực (NICU) ở bệnh viện Nhi Đồng St. Louis, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các trẻ sinh non đã được nuôi ăn hàng ngày với ít nhất 50% là sữa mẹ có mô não và diện tích bề mặt vỏ não nhiều hơn so với các trẻ sinh non rất ít được cho bú sữa mẹ.
Các nhà nghiên cứu trình bày những phát hiện của mình vào ngày 3 tháng 5 tại Hội thảo hàng năm của các Hiệp Hội Hàn Lâm Nhi khoa ở Baltimore.“Não của các em bé sinh thiếu tháng thường không phát triển được đầy đủ,” nghiên cứu viên chính – bác sĩ Cynthia Rogers, một phó giáo sư tâm thần nhi khoa đang điều trị cho các bệnh nhân ở bệnh viện Nhi khoa St. Louis đã nói như vậy.
“Nhưng sữa mẹ đã cho thấy rất có ích cho sự phát triển của các cơ quan khác, do đó, chúng tôi muốn quan sát tác động của sữa mẹ trên não. Với những hình chụp cộng hưởng từ, chúng tôi thấy rằng trẻ được cho bú nhiều sữa mẹ có thể tích não lớn hơn. Điều này rất quan trọng vì nhiều nghiên cứu khác đã cho thấy mối liên quan giữa thể tích và sự phát triển nhận thức”.
Nghiên cứu này gồm 77 trẻ nhũ nhi sinh thiếu tháng. Các nhà nghiên cứu xem xét hồi cứu lượng sữa mẹ mà các trẻ này đã tiếp nhận trong khi được chăm sóc ở NICU. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã thực hiện chụp cắt lớp não của các trẻ nhũ nhi này vào thời điểm ngày dự sinh đủ tháng của mỗi trẻ.
Tất cả các trẻ em được sinh sớm trước ít nhất 10 tuần, với tuổi thai trung bình khoảng 26 tuần, hoặc sinh sớm trước khoảng 14 tuần. Vì các trẻ này vẫn đang phát triển nên các trẻ sinh non điển hình có não nhỏ hơn trẻ nhũ nhi sinh đủ tháng.
Tác giả đầu tiên Erin Reynolds, một kỹ thuật viên nghiên cứu ở phòng thí nghiệm Roger đã nói rằng khi đo đạc các tác động của sữa me trên não trẻ em, các nhà nghiên cứu không phân biệt được giữa sữa từ các bà mẹ đang nuôi con và sữa được các bà mẹ khác tặng. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu cũng đã tập trung vào ảnh hưởng của sữa mẹ nói chung.
Reynold nói rằng: “Vì lượng sữa mẹ gia tăng, do đó, trẻ có cơ hội có 1 diện tích bề mặt vỏ não lớn hơn. Vỏ não là 1 phần của não bộ có liên quan đến nhận thức, do đó, chúng tôi giả định rằng vỏ não càng nhiều sẽ giúp cải thiện nhận thức vì trẻ em tăng trưởng và phát triển”.
Trẻ sinh non là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến những vấn đề về thần kinh ở trẻ em và có liên hệ đến các rối loạn tâm thần muộn ở tuổi thiếu nhi. Roger và nhóm của cô có kế hoạch theo dõi các trẻ trong nghiên cứu suốt nhiều năm đầu đời của chúng để xem chúng lớn lên như thế nào, tập trung quan sát sự vận động, nhận thức và phát triển xã hội.
Vì các trẻ em ngày càng lớn lên nên các nhà nghiên cứu tin rằng họ sẽ có thể xác định được những tác động của việc cho bú mẹ sớm trên kết cục phát triển về sau.“Chúng tôi muốn quan sát có phải là sự khác biệt về kích thước của não có 1 tác động trên bất kỳ quá trình phát triển nào của trẻ hay không”, Roger nói.
“Các bác sĩ chuyên khoa sơ sinh đã tin rằng sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhũ nhi sinh non. Chúng tôi muốn quan sát xem có phải là đã có thể phát hiện ảnh hưởng của sữa mẹ trên não bộ của các trẻ này trong giai đoạn sớm của cuộc đời và có phải lợi ích của sữa mẹ đã xuất hiện một cách nhanh chóng và đã phát triển theo thời gian”.
Roger nói rằng việc tiến hành các nghiên cứu về sau nữa là rất cần thiết để xác định 1 cách đặc hiệu sữa mẹ ảnh hưởng lên não như thế nào và chất nào tiêu biểu trong sữa mẹ dường như có khả năng khởi phát sự phát triển não.
Cô đã giải thích rằng bởi vì tất cả các trẻ em trong nghiên cứu đều được sinh non nên do đó, không thể làm rõ được liệu sữa mẹ có mang đến những lợi ích tương tự cho các trẻ sinh đủ tháng hay không.
Reynolds E. và cộng sự. Các tác động của việc tiêu thụ sữa mẹ trong tháng đầu đời trên sự phát triển não sớm ỏ trẻ nhu nhi sinh non. Tóm tắt được trình bày ở Hội thảo các Hiệp Hội Nhi Khoa Hàn Lâm năm 2016, ngày 3 tháng 5 năm 2016.