Procare – Website chính thức https://procarevn.vn PM Procare - Công thức đặc biệt cho phụ nữ mang thai, cho con bú Tue, 19 Jul 2022 02:36:01 +0000 vi hourly 1 Cẩm nang chăm sóc trẻ sơ sinh toàn tập https://procarevn.vn/cam-nang-cham-soc-tre-so-sinh-7301/ https://procarevn.vn/cam-nang-cham-soc-tre-so-sinh-7301/#respond Sat, 02 May 2020 07:25:42 +0000 https://procarevn.vn/?p=7301 Thời kỳ sơ sinh được tính từ lúc sinh tới 30 ngày tuổi. Đây là giai đoạn chuyển tiếp vô cùng quan trọng, đòi hỏi trẻ phải thích nghi với cuộc sống bên ngoài tử cung. Những biến động trong thời kỳ này có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển của trẻ về sau. Chính vì vậy, cần hiểu rõ các đặc điểm về sinh lý, bệnh lý của trẻ để có sự chăm sóc, nuôi dưỡng và điều trị đúng cách.

Cẩm nang chăm sóc trẻ sơ sinh toàn tập 1

Cẩm nang chăm sóc trẻ sơ sinh gồm có:

  1. Đặc điểm sinh lý quan trọng của trẻ sơ sinh
  2. Cách chăm sóc trẻ sơ sinh
  3. Cách nuôi dưỡng trẻ sơ sinh
  4. Các bệnh lý thường gặp ở trẻ sơ sinh

1.Đặc điểm sinh lý quan trọng của trẻ sơ sinh

Hệ cơ quan Đặc điểm sinh lý
Hệ hộ hấp
  • Nhịp thở 40-60 lần/1 phút và dễ thay đổi, rối loạn
  • Có những cơn ngưng thở sinh lý (<15 giây)
  • Cơn ngưng thở là bệnh lý khi > 15 giây và/hoặc kèm tím tái, nhịp tim chậm
Chức năng điều nhiệt
  • Dễ mất nhiệt, khả năng tạo nhiệt kém khiến dễ bị hạ thân nhiệt
  • Năng lượng dự trữ chỉ đủ cung cấp trong vòng 2-3 giờ sau sinh
  • Chất sinh nhiệt chủ yếu của trẻ lúc này là Glucose. Nhưng Lipid là chất có vai trò quan trọng không thể thiếu.
Chuyển hóa
  • Tỷ lệ nước trong cơ thể cao
  • Dễ phù trong những giờ đầu và sụt cân sinh lý (giảm 10-15% cân nặng trong 1 tuần đầu)
  • Dự trữ Glycogen chỉ có ở trẻ > 35 tuần
  • Hầu như không có chuyển hóa Protid trong 5 ngày đầu do thiếu men
Thần kinh
  • Bề mặt não ít nếp nhăn (đặc biệt ở trẻ sinh non). Mật độ và kích thước tế bào thần kinh tăng dần theo tuổi.
  • Mạch máu có tính thấm cao, rất dễ bị xuất huyết não
Thận
  • Trong những ngày đầu, chức năng cầu thận kém nên trẻ ít thải các chất điện giải, kể cả chất độc đối với cơ thể.
Gan
  • Men gan có thể tăng cao trong những ngày đầu do gan bị hoại tử (khi thiếu Oxy hoặc ngạt khi sinh)
  • Chức năng gan chưa hoàn thiện, đặc biệt ở trẻ sinh non.
  • Trẻ càng đẻ non, vàng da càng nặng và kéo dài dễ đưa đến vàng da nhân
Tim mạch
  • Tim tương đối to, nhịp tim 120-160 lần/1 phút
  • Thể tích máu cao: 80ml/1kg
  • Thành mạch dễ vỡ, dễ xuất huyết, nhất là trong điều kiện thiếu Oxy
Miễn dịch
  • Da mỏng, toan thấp, niêm mạc dễ trầy, dễ viêm
  • Miễn dịch còn kém, đặc biệt ở trẻ non tháng.
  • Kháng thể IgG nhận từ mẹ, chủ yếu tác dụng trên vi trùng Gram (+)
Máu
  • Hồng cầu thiếu một số men khiến tăng Methemoglobin (hemoglobin không gắn được với Oxy), càng rõ trong trường hợp sinh non, thiếu men G6DP
  • Chất sắt được cung cấp chủ yếu vào 3 tháng cuối thai kỳ. Trẻ càng sinh non càng thiếu máu thiếu sắt sớm
  • PaO2 tăng, erythropoietin giảm sau sinh và hiện tượng tán huyết sinh lý gây lên tình trạng thiếu máu sinh lý ở trẻ sau tháng thứ 2,3 ở trẻ đủ tháng và sau tháng thứ 1 ở trẻ non tháng
Nội tiết
  • Có nhiều nội tiết tố nữ, folliculin từ mẹ (vú sưng, có thể ra một chút máu ở âm đạo bé gái trong vòng 10-12 ngày đầu)
  • Tuyến giáp hoạt động từ tháng thứ 3 thai kỳ và sẵn sàng hoạt động ngay sau khi ra đời để giữ thân nhiệt.
  • Tụy hoạt động ngay sau sinh để tiết Insulin
  • Thượng thận to và hoạt động sớm

2.Chăm sóc trẻ sơ sinh

Nguyên tắc chăm sóc trẻ sơ sinh:

  • Đảm bảo điều kiện sạch, vô trùng tối đa có thể được
  • Giữ ấm, đảm bảo nhiệt độ môi trường và thân nhiệt tối ưu
  • Tận dụng tối đa nguồn sữa mẹ
  • Thực hiện đủ các liệu pháp dự phòng thường quy
  • Theo dõi sát các diễn biến để phát hiện và xử trí sớm các biểu hiện bệnh lý, nhất là với trẻ sơ sinh có nguy cơ cao.

Hướng dẫn chăm sóc cụ thể:

  • Nếu điều kiện mẹ và bé ổn định, cho bé tiếp xúc mẹ và bú càng sớm càng tốt. Tốt nhất là trong vòng 30 phút sau sinh
  • Nếu mẹ có HbsAg (+), tiêm phòng vacxin phòng bện Viêm gan B và huyết thanh chống viêm gan B trong vòng 12 giờ sau sinh.
  • Thân nhiệt tối ưu cho trẻ khỏe mạnh là 36,5 độ tới 37,5 độ. Nhiệt độ môi trường tối ưu là 28-30 độ với trẻ đủ tháng và 30-33 độ với trẻ non tháng. Độ ẩm môi trường trung bình từ 30-60%.
  • Cần đội mũ ấm cho trẻ để hạn chế mất nhiệt qua da đầu. Khi thân nhiệt ổn định có thể cho nằm nôi, quấn khăn ấm.
  • Tư thế nằm: nên cho trẻ nằm nghiêng trong vài ngày đầu, sau đó cho trẻ nằm ngửa, trên một tấm nệm cứng, có lót một lớp vải mỏng. Một số trường hợp không được nằm ngửa như: trào ngược dạ dày thực quản, trẻ non tháng đang mắc bệnh hô hấp… Khi trẻ thức, thình thoảng nên cho trẻ nằm sấp để giúp vận động cơ cổ, cơ vai và hạn chế một số biến dạng hộp sọ.
  • Tắm cho trẻ sơ sinh mỗi ngày, đồng thời thực hiện vệ sinh mắt, mũi, tai bằng nước muối sinh lý. Khi tắm phải thực hiện trong phòng kín, tránh gió lùa, vào thời gian ấm áp trong ngày. Có thể tắm bé từ giờ thứ 24 sau sinh.

Cách tắm cho trẻ sơ sinh:

Chuẩn bị:

  • 01 chậu nước ấm 37 độ, 2 khăn lông lớn, tã, áo, mũ, bao tay – chân
  • Tăm bông vô khuẩn, bông gòn vô trùng, nước muối sinh lý.

Tiến hành:

  • Gội đầu với dầu gội, xả sạch rồi rửa mặt cho bé bằng nước sạch, lau khô.
  • Làm ướt thân bé, thoa xà phòng (chú ý các nếp gấp) rồi xả 01 lần nước sạch (giữ khô rốn khi tắm)
  • Đặt bé lên khăn bông, lau thật khô. Nhỏ mắt, ngoáy mũi bằng nước muối sinh lý, lau khô tai bằng tăm bông, chăm sóc rốn.
  • Mặc áo, đeo bao tay – chân, đội mũ, quấn tã rồi quấn ấm bé bằng khăn lông khô.
  • Thay tã ngay mỗi khi ướt hoặc dơ. Nên dùng tã bằng loại vải thấm tốt (cotton). Giặt sạch bằng xà phòng rồi phơi nắng và nên ủi lại mỗi khi sử dụng.
  • Lau sạch kỹ hết nước tiểu, phân ở mông bé. Một cánh tay luồn phía sau đỡ đầu bé, bàn tay giữ eo bé.
  • Quấn tã sạch, có thể lót thêm gạc mềm, không quấn quá chặt. Khi rốn chưa rụng, hay vẫn còn dỉ dịch thì quấn tã dưới rốn.
  • Chăm sóc rốn: 1 lần/ngày sau khi tắm bé và khi rốn bị rây bẩn. Khi rốn nhiễm trùng thì cần chăm sóc nhiều lần trong ngày.

Cách chăm sóc rốn:

  • Rửa tay kỹ bằng xà phòng và nước sạch
  • Rửa rốn bằng nước muối sinh lý hay nước sạch. Lau khô lại bằng gòn vô trùng và tăm bông, chú ý các nếp sâu ở chân rốn.
  • Để thoáng rốn (không dùng gạc và băng kín rốn) cũng không bôi bất cứ chất gì lên rốn
  • Có thể tháo kẹp rốn sau giờ thứ 24 sau sinh
  • Bình thường rốn có thể tiết dịch sinh lý (không hôi) rồi rụng từ 5-15 ngày sau sinh. Dịch sinh lý có thể tiết thêm 1 tuần sau đó.
  • Các dấu hiệu của nhiễm trùng rốn: rỉ dịch hay máu hôi, da quanh chân rốn tấy đỏ. Dấu hiệu nhiễm trùng toàn thân trong giai đoạn muộn
  • Cho trẻ tiếp xúc ánh nắng sớm, mỗi ngày khoảng 10-15 phút khi thời tiết ấm áp để tăng cường Vitamin D nội sinh, sát trùng da tự nhiên.
  • Theo dõi cân nặng của trẻ mỗi ngày trong điều kiện cho phép, nhất là với trẻ bị bệnh lý hoặc nguy cơ cao. Theo dõi việc vệ sinh, bú sữa của trẻ, theo dõi tình trạng vàng da (nếu có) mỗi ngày.

3. Nuôi dưỡng

Nguyên tắc chung:

  • Ưu tiên nuôi dưỡng qua đường tiêu hóa càng sớm càng tốt nếu không có chống chỉ định.
  • Thứ tự ưu tiên: nuôi ăn qua đường tiêu hóa -> nuôi ăn tĩnh mạch một phần -> nuôi ăn tĩnh mạch toàn phần
  • Sữa mẹ là thức ăn ưu tiên cho mọi đối tượng có thể dinh dưỡng qua đường tiêu hóa. Trừ một số trường hợp có chỉ định đặc biệt.
  • Trẻ khỏe mạnh, đủ tháng nên được bú mẹ trong vòng 30 phút đầu tiên sau sinh.
  • Thận trọng từng bước khi cho trẻ non tháng, đặc biệt trẻ rất nhẹ cân ăn qua đường tiêu hóa do nguy cơ viêm ruột hoại tử cao.
  • Cần có sự theo dõi sát hiệu quả của dinh dưỡng. Nhất là với trẻ có nguy cơ cao.

Lợi ích khi nuôi con bằng sữa mẹ:

  • Sữa mẹ có nhiều kháng thể, bạch cầu và thành phần Carbohydrat giúp cơ thể chống lại siêu vi, virus, ký sinh trùng. Giúp cải thiện chức năng của hệ thống miễn dịch
  • Cải thiện chức năng dinh dưỡng và phát triển nhờ đặc tính dễ tiêu hóa.
  • Hạn chế nguy cơ bị béo phì khi trưởng thành
  • Giảm tần suất các bệnh lý mãn tính như tiểu đường, viêm ruột, dị ứng, ung thư, …
  • Tác động mạnh mẽ nên sự phát triển trí tuệ, nhận thức do các thành phần acid béo không no chuỗi dài trong sữa mẹ.
  • Tăng cường sự gắn bó mẹ con, cho trẻ cảm giác an toàn, được chở che.
  • Giảm chi phí do việc nuôi trẻ bằng sữa công thức, giảm chi phí cho việc thăm khám khi trẻ bị bệnh
  • Giúp mẹ tống xuất nhau nhanh, giảm mất máu, tử cung co hồi sau sinh nhanh. Giảm nguy cơ ung thư vú, buồng trứng ở mẹ sau này.

Không nên cho trẻ bú mẹ khi:

  • Mẹ mắc bệnh truyền nhiễm, lao tiến triển, HIV, nhiễm trùng cấp nặng, viêm gan B mà đầu vú đang bị nứt rỉ dịch…
  • Mẹ mắc bệnh mãn tính: ung thư, suy tim, suy thận nặng…
  • Mẹ đang dùng thuốc có thể bài tiết qua sữa mà gây độc đối với trẻ.

Hướng dẫn cho con bú

Tiêu chí ngậm bắt vú đúng:

  • Cằm chạm vú mẹ
  • Miệng há rộng
  • Môi dưới đưa ra ngoài
  • Quầng vú thấy bên trên nhiều hơn bên dưới

Tư thế mẹ khi cho con bú:

  • Mẹ ở tư thế thoải mái nhất
  • Giữ đầu bé ở vị trí thẳng hàng với thân bé
  • Nâng đỡ được toàn bộ thân trẻ
  • Bụng bé áp sát vào bụng mẹ
  • Miệng bé hướng về vú mẹ

Đánh giá bú hiệu quả:

  • Bú chậm, sâu, thỉnh thoảng nghỉ. Tự động bỏ bú khi no
  • Thời gian bú khoảng 15-20 phút
  • Sau bú ngủ 2-4 giờ
  • Tăng cân đủ 20-30gam/ngày

>> Xem thêm: Hướng dẫn cho con bú đúng cách

4. Các bệnh lý thường gặp

4.1 Hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh

4.1 Hội chứng suy hô hấp ở trẻ sơ sinh 1

Cần theo dõi kỹ nhịp thở của trẻ để phát hiện sớm suy hô hấp ở trẻ sơ sinh

Suy hô hấp là hội chứng rất thường gặp ở trẻ sơ sinh, nhất là trong những ngày đầu sau sinh. Khi được chuyển từ tử cung ra ngoài, không còn phụ thuộc vào mẹ, trẻ cần tự thích nghi với cuộc sống bên ngoài, tự cung cấp dưỡng khí bằng phổi của mình. Đây là điều kiện tối cần để đảm bảo sự tồn tại của trẻ.

Thời gian thích nghi của trẻ bắt đầu từ vài phút tới vài ngày sau sinh. Đa số các bộ phận hoạt động và hoàn chỉnh trong vòng 28 ngày sau sinh. Đây là thời kỳ có tỷ lệ tử vong cao nhất ở trẻ em, chiếm gần 70% tổng số tử vong của trẻ dưới 1 tuổi.

Suy hô hấp là tình trạng rối loạn khả năng trao đổi khí giữa phế nang và mao mạch dẫn tới giảm Oxy và tăng CO2 trong máu động mạch. Hội chứng này nói lên sự không thích nghi của bộ máy hô hấp, nó có thể xảy ra sau vài phút, vài giờ hay vài ngày sau sinh. Do đó, cần theo dõi nhịp thở của trẻ ít nhất trong vòng 7 ngày sau sinh để kịp thời phát hiện mọi dấu hiệu của suy hô hấp.

Dấu hiệu suy hô hấp:

  • Thay đổi nhịp thở: nhịp thở tăng >60 lần/phút hoặc giảm < 30 lần/phút. Bình thường, nhịp thở của trẻ sơ sinh cần ổn định ở 40-60 lần/phút sau 24h đầu sau sinh. Nếu sau 24h mà nhịp thở vẫn dao động lớn thì khả năng thích nghi của trẻ với môi trường bên ngoài thấp. Tiên lượng xấu.
  • Dấu hiệu phản ứng: phập phồng cánh mũi, rút lõm, rên rỉ
  • Biểu hiện xanh tím: xanh tím da ở quanh môi, đầu chi hoặc toàn thân. Đây là dấu hiệu nặng. Do đó cần theo dõi kỹ nhịp thở của trẻ để phát hiện sớm và có biện pháp hỗ trợ nhanh chóng, kịp thời.

Nguyên nhân:

  • 80% các trường hợp suy hô hấp ở trẻ sơ sinh do các nguyên nhân như: bệnh màng trong, có cơn khó thở nhanh thoáng qua, hít phải nước ối phân su; viêm phổi sơ sinh.
  • 20% các trường hợp còn lại có nguyên nhân từ: tràn dịch màng phổi, thiểu sản phổi, bệnh tim, tổn thương thần kinh cơ hoành, yếu cơ, hạ đường huyết, toan chuyển hóa, hạ thân nhiệt; mẹ dùng thuốc ngủ, thuốc mê…

Phòng tránh suy hô hấp:

  • Biện pháp đơn giản và hiệu quả để phòng bệnh là nâng cao mức sống cho sản phụ ngay từ khi mang thai. Thực hiện chế độ ăn uống, làm việc nghỉ ngơi điều độ để giảm thiểu xuất hiện các yếu tố nguy cơ cho thai kỳ: tiểu đường, nhiễm trùng trong thời gian mang thai… Đồng thời giữ vệ sinh sạch sẽ môi trường sống, trong ăn uống, sinh hoạt hàng ngày.

4.2 Thay đổi thân nhiệt trẻ sơ sinh

Ngay sau thời khắc sinh nở là lúc trẻ sơ sinh rời khỏi môi trường cơ thể ấm cúng và ổn định của mẹ để tiếp xúc với môi trường khắc nghiệt bên ngoài. Trong khi đó trẻ sơ sinh, đặc biệt là trẻ sinh non chức năng điều hòa thân nhiệt còn kém nên khi nhiệt độ của môi trường thay đổi vượt quá khả năng cơ thể tự điều chỉnh thì trẻ có thể bị sốt (tăng thân nhiệt) hoặc hạ thân nhiệt.

Thân nhiệt bình thường của trẻ sơ sinh dao động từ 36,5 đến 37,40C. Tăng thân nhiệt hay hạ thân nhiệt nếu không được xử trí kịp thời sẽ dẫn tới hậu quả khôn lường.

Xem chi tiết: Cách ổn định thân nhiệt ở trẻ sơ sinh

  Hạ thân nhiệt: Tăng thân nhiệt
Nguyên nhân
  • Diện tích da so với thân nhiệt trẻ sơ sinh lớn gấp 2-3 lần so với người lớn làm tăng mất nhiệt qua da nên trẻ dễ bị hạ thân nhiệt
  • Trẻ sinh non tháng và nhẹ cân, lớp mỡ dưới da ít nên khả năng sinh nhiệt kém
  • Đáp ứng chuyển hóa của trẻ đối với hiện tượng nhiễm lạnh rất hạn chế, làm tăng nguy cơ hạ thân nhiệt kéo theo mất năng lượng và sụt cân ở trẻ.
  • Trẻ bị mắc bệnh gây hạ thân nhiệt
  • Trẻ không được bú sữa mẹ đầy đủ làm giảm sinh nhiệt, không chống được lạnh sẽ giảm trương lực cơ, giảm phản xạ bú làm trẻ bị đói; làm thành vòng xoắn thiếu dinh dưỡng, thiếu năng lượng gây hạ thân nhiệt trầm trọng khiến trẻ dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và suy dinh dưỡng.
  • Do trung tâm điều hòa thân nhiệt của trẻ sơ sinh chưa hoàn thiện
  • Quấn quá nhiều tã hoặc quấn trẻ quá chặt, đặt trẻ ở phòng quá nóng
  • Trong giai đoạn sụt cân sinh lý trẻ có thể bị tăng thân nhiệt
  • Trẻ bị mắc các bệnh lý nhiễm khuẩn.
Dấu hiệu nhận biết
  • Dấu hiệu sớm: ít cử động, bú yếu, khóc yếu, nhiệt độ <360C
  • Dấu hiệu muộn: Toàn thân lạnh, cứng bì vùng lưng, chi; trẻ lờ đờ, thở nông, không đều. Nếu không được điều trị kịp thời sẽ làm chậm nhịp tim, hạ đường huyết, xuất huyết nội tạng, suy hô hấp,… có thể tử vong.
  •  Da trẻ nóng, đỏ, mẹ có cảm giác nóng đầu vú khi trẻ ngậm vú mẹ
  • Trẻ quấy khóc hơn bình thường
  • Cặp nhiệt độ > 37,50C
Xử lý cơ bản
  • Cho trẻ tiếp xúc da kề da với mẹ, phủ áo cho mẹ, đắp thêm chăn cho trẻ
  •  Đảm bảo nhiệt độ phòng nuôi trẻ 36 – 380C
  •  Nếu sau 2h xử lý như trên thân nhiệt trẻ không đạt được 36 độ trở lên thì cho trẻ nhập viện (Chú ý giữ nguyên tư thế ủ ấm cho trẻ)
  • Giảm nhiệt độ phòng của trẻ, không để nhiều người trong phòng
  • Nới bớt tã lót, quần áo của trẻ, đảm bảo bú mẹ đủ
  •  Đưa trẻ tới cơ sở y tế tìm nguyên nhân để có hướng xử lý kịp thời.
Dự phòng
  • Lau khô trẻ, phòng của trẻ phải đạt nhiệt độ từ 36-380C, tránh gió lùa
  • Đảm bảo dinh dưỡng đủ để cung cấp năng lượng cho trẻ
  • Phát hiện và điều trị kịp thời các bệnh lý của trẻ

Ngăn chặn tăng hoặc hạ thân nhiệt là biện pháp dễ dàng hơn nhiều so với việc giải quyết hậu quả của nó gây ra.

4.3 Vàng da sơ sinh

4.3 Vàng da sơ sinh 1

Cần quan sát toàn thân của trẻ ở nơi sáng để phát hiện trẻ sơ sinh bị vàng da

Vàng da sơ sinh là triệu chứng thường gặp ở trẻ do nhiều nguyên nhân gây nên. Hồng cầu của trẻ sơ sinh bị vỡ phóng thích một lượng lớn chất Bilirubin có sắc tố vàng (Vàng da khi lượng Bilirubin tăng > 120 µmol/l (>7mg/dl) trong máu trẻ sơ sinh). Chính sự gia tăng của chất này làm da có màu vàng.

Chứng vàng da dễ dàng nhận biết bằng mắt thường ở nơi có đủ ánh sáng tự nhiên. Vì vậy hàng ngày mẹ cần quan sát toàn thân của trẻ ở nơi sáng. Trong trường hợp khó nhận biết (da trẻ đỏ hoặc đen) có thể ấn nhẹ ngón tay cái lên da trẻ vài giây, sau đó buông ra, nếu trẻ bị vàng da nơi ấn sẽ có màu vàng rõ rệt.

>> Xem thêm: Các loại vàng da sơ sinh

Có 2 loại vàng da: vàng da sinh lý và vàng da bệnh lý:

  Vàng da sinh lý: Vàng da bệnh lý:
Đặc điểm:
  • Xuất hiện từ ngày thứ 3 sau đẻ
  • Xảy ra ở hầu hết trẻ sơ sinh với vàng da nhẹ vùng mặt, cổ, ngực và vùng bụng phía trên rốn
  • Vàng da không kết hợp với các triệu chứng bất thường khác như: thiếu máu, gan lách to, bỏ bú, lừ đừ…
  • Vàng da đậm xuất hiện sớm, có thể xuất hiện từ ngày đầu tiên sau sinh
  • Không hết vàng sau 1 tuần với trẻ đủ tháng và 2 tuần đối với trẻ non tháng
  • Vàng toàn thân, lòng bàn tay, bàn chân và cả kết mạc mắt
  • Có xuất hiện các triệu chứng bất thường khác (trẻ lừ đừ, bỏ bú, co giật…)
  • Xét nghiệm Bilirubin trong máu tăng cao hơn mức sinh lý.

 

Nguyên nhân: Trẻ sơ sinh có lượng lớn tế bào hồng cầu, các tế bào này thường xuyên bị phá vỡ và thay mới. Khi tế bào hồng cầu bị phá vỡ sẽ giải phóng ra Bilirubin, một chất có màu vàng.  Trong khi đó, gan của bé lại chưa đủ trưởng thành để lọc bỏ hết Bilirubin khỏi máu. Sự tích tụ Bilirubin đủ lớn sẽ gây nên vàng da ở trẻ.
  •  Suy giảm chức năng tuyến giáp bẩm sinh ở trẻ
  •  Mẹ bị mắc đái tháo đường nhưng không được điều trị khi có thai
  • Tắc đường tiêu hóa, tắc mật, viêm gan…
  • Trẻ bị thiếu một số men: G6DP,..
  • Bất đồng nhóm máu mẹ và con…
Tiến triển: Khi bé được khoảng 2 tuần tuổi, gan đã phát triển đầy đủ hơn và đủ sức xử lý Bilirubin nên bệnh vàng da sẽ tự khỏi mà không gây ra bất kỳ nguy hiểm nào. Nếu không phát hiện và điều trị vàng da bệnh lý kịp thời thì có thể xảy ra biến chứng nhiễm độc thần kinh (còn gọi là vàng da nhân) do Bilirubin gián tiếp thấm vào não, hậu quả là trẻ sẽ bị tử vong hoặc bị bại não suốt đời
Phòng bệnh
  • Trẻ bú sữa mẹ sớm và hoàn toàn sau đẻ vì sữa mẹ giúp đào thải nhanh chất Bilirubin qua đường tiêu hóa.
  • Hàng này theo dõi da của trẻ để phát hiện kịp thời sự lan rộng của vùng vàng da.
  •  Khi trẻ có biểu hiện nghi là vàng da cần đưa đến cơ sở y tế để điều trị.

Dựa vào thời gian xuất hiện vàng da, vị trí vàng da và cân nặng của trẻ để phân loại mức độ vàng da. 

Ngày tuổi Vị trí vàng da Mức độ Thái độ xử trí
Ngày 1 Bất cứ vị trí nào Vàng da nặng Đưa trẻ tới ngay cơ sở y tế
Ngày 2 Cánh tay và cẳng chân Vàng da nặng
Ngày 3 Bàn tay và chân Vàng da nặng

Trẻ sơ sinh cơ thể còn rất yếu ớt và nhạy cảm. Do đó, chăm sóc trẻ sơ sinh đòi hỏi mẹ và toàn thể gia đình cần hết sức lưu ý và thận trọng. Hy vọng các thông tin trên đây có thể giúp bạn chăm sóc tốt nhất cho trẻ sơ sinh, giúp trẻ phát triển khỏe mạnh cả về thể chất và trí tuệ.

Theo:

  • TS. Hoàng Trọng Kim – Giáo trình Nhi Khoa, tập 2 – Nhà xuất bản Y học
  • Nhóm tác giả Trung tâm chăm sóc và điều trị Sơ sinh – Bệnh viện Phụ sản Trung Ương (BSCK II. Nguyễn Ngọc Lợi, TS. Lê Minh Trác, ThS. Trần DIệu Linh, BS. Đinh Phương Anh)

Procarevn .vn tổng hợp

]]>
https://procarevn.vn/cam-nang-cham-soc-tre-so-sinh-7301/feed/ 0
Trẻ sơ sinh có mẹ bị thừa cân tăng trưởng nhanh hơn trong năm đầu tiên https://procarevn.vn/tre-so-sinh-co-me-bi-thua-can-tang-truong-nhanh-hon-trong-nam-dau-tien-10001/ https://procarevn.vn/tre-so-sinh-co-me-bi-thua-can-tang-truong-nhanh-hon-trong-nam-dau-tien-10001/#respond Fri, 20 Dec 2019 06:35:37 +0000 https://procarevn.vn/?p=10001 Nuôi con bằng sữa mẹ có thể có tác dụng bảo vệ trẻ khỏi bị béo phì sau này bằng cách giảm bớt tốc độ tăng trưởng và hạn chế mô mỡ trong thời kì nhũ nhi. Do quá trình tăng trưởng trong thời kì nhũ nhi có thể ảnh hưởng lớn đến sức khỏe lâu dài nên cần phải hiểu yếu tố nào có tác động đến quá trình tăng trưởng ở trẻ nhũ nhi. Câu hỏi đặt ra là liệu người mẹ bị béo phì/ thừa cân có ảnh hưởng đến sự tăng trưởng của trẻ nhũ nhi hay không, và liệu sữa công thức có hàm lượng protein thấp có tác động đến sự tăng trưởng của trẻ hay không?

Trẻ sơ sinh có mẹ bị thừa cân tăng trưởng nhanh hơn trong năm đầu tiên 1

Béo phì là vấn đề ngày càng phát triển trên toàn thế giới, thu hút rất nhiều mối quan tâm đến các biện pháp phòng ngừa. Vì béo phì có thể khởi đầu từ bào thai và thời kỳ nhũ nhi nên những can thiệp ngay từ đầu đời ngày càng được chú ý. Nếu giai đoạn nhũ nhi trẻ tăng trưởng quá nhanh thì có thể liên quan đến hiện tượng bị thừa cân và béo phì sau này.

Nhiều nghiên cứu quan sát đã cho thấy trẻ được nuôi bằng sữa mẹ được bảo vệ khỏi bị béo phì sau này trong cuộc sống. Điều đó chứng tỏ chắc chắn rằng trẻ bú sữa mẹ tăng trưởng chậm hơn trẻ được nuôi bằng sữa công thức, và những trẻ được nuôi bằng sữa mẹ được cho là gầy hơn những trẻ được nuôi bằng sữa công thứ.

Do đó, người ta cho rằng nuôi con bằng sữa mẹ có tác dụng bảo vệ trẻ khỏi bị béo phì sau này bằng cách làm chậm tốc độ tăng trưởng và hạn chế các mô mỡ trong thời kỳ nhũ nhi. Niềm tin mạnh mẽ rằng việc nuôi con bằng sữa mẹ sẽ cải thiện được sức khỏe sau này khiến WHO thiết lập chuẩn tăng trưởng mới dựa trên số liệu từ những trẻ được nuôi hầu hết bằng sữa mẹ trong năm đầu tiên.

Vì vậy, người ta cho rằng cần tránh tăng trưởng quá mức trong thời kỳ nhũ nhi và tin rằng điều này sẽ khiến trẻ có sức khỏe tốt khi lớn lên. Những trẻ sơ sinh có mẹ bị thừa cân/béo phì đều có tốc độ tăng trưởng nhanh trong năm đầu tiên, thậm chí cả khi chúng được nuôi bằng sữa mẹ. Và hiện tượng tăng trưởng nhanh được biết là tiền đề của bệnh béo phì sau này.

Trẻ có mẹ bị thừa cân hoặc béo phì thường có tốc độ tăng trưởng cao hơn trong năm đầu tiên, kể cả khi bé được bú sữa mẹ. Ảnh hưởng của việc mẹ bị béo phì được thấy rõ nhất trong sáu tháng đầu sau khi sinh, trùng với thời gian sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng chủ yếu của trẻ. Điều này chứng tỏ sự béo phì của người mẹ có thể đã được chuyển đến con qua con đường trung gian là thành phần hoặc số lượng sữa mẹ.

Số liệu từ ba nghiên cứu được thực hiện gần đây đã được thu thập và phân tích để trả lời câu hỏi liệu con của những người mẹ thừa cân/béo phì được nuôi bằng sữa mẹ có biểu hiện tăng trưởng nhanh hay không. Kết quả cho thấy những trẻ này có tốc độ tăng trưởng nhanh hơn so với chuẩn của WHO và chúng tăng trưởng nhiều hơn đáng kể so với những trẻ có mẹ gầy.

Các sữa công thức truyền thống dành cho trẻ nhũ nhi lớn hơn ba tháng tuổi thường có hàm lượng protein nhiều hơn mức cần thiết. Các sữa công thức có hàm lượng protein thấp, gần hơn với thành phần trong sữa mẹ có thể làm chậm tốc độ tăng trưởng của những trẻ có mẹ bị thừa cân hoặc béo phì, và giảm nguy cơ béo phì trong tương lai.

Câu hỏi liệu những trẻ tăng trưởng nhanh có tăng trưởng chậm lại hay không nếu được nuôi bằng sữa công thức có hàm lượng protein thấp cũng đã được nghiên cứu. Kết quả cho thấy các sữa công thức có hàm lượng protein nhỉnh hơn sữa mẹ một chút giúp trẻ tăng trưởng bình thường và làm giảm đáng kể tốc độ tăng trưởng nhanh.

Theo Procarevn tổng hợp

]]>
https://procarevn.vn/tre-so-sinh-co-me-bi-thua-can-tang-truong-nhanh-hon-trong-nam-dau-tien-10001/feed/ 0
Trẻ sinh thiếu tháng có não tăng trưởng mạnh mẽ nhờ sữa mẹ https://procarevn.vn/tre-sinh-thieu-thang-co-nao-tang-truong-manh-me-nho-sua-me-10002/ https://procarevn.vn/tre-sinh-thieu-thang-co-nao-tang-truong-manh-me-nho-sua-me-10002/#respond Fri, 20 Dec 2019 06:31:53 +0000 https://procarevn.vn/?p=10002 Việc cho các trẻ sinh thiếu tháng được bú sữa mẹ phần lớn trong tháng đầu tiên của cuộc đời dường như thúc đẩy não tăng trưởng mạnh mẽ. Các trẻ sinh non đã được nuôi ăn hàng ngày với ít nhất 50% là sữa mẹ có mô não và diện tích bề mặt vỏ não nhiều hơn vào ngày dự sinh của chúng so với các trẻ sinh non được cho bú sữa mẹ rất ít.

Trẻ sinh thiếu tháng có não tăng trưởng mạnh mẽ nhờ sữa mẹ 1

Nghiên cứu các trẻ nhũ nhi sinh thiếu tháng ở Đơn Vị Chăm Sóc Trẻ Sơ Sinh Tích Cực (NICU) ở bệnh viện Nhi Đồng St. Louis, các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng các trẻ sinh non đã được nuôi ăn hàng ngày với ít nhất 50% là sữa mẹ có mô não và diện tích bề mặt vỏ não nhiều hơn so với các trẻ sinh non rất ít được cho bú sữa mẹ.

Các nhà nghiên cứu trình bày những phát hiện của mình vào ngày 3 tháng 5 tại Hội thảo hàng năm của các Hiệp Hội Hàn Lâm Nhi khoa ở Baltimore.“Não của các em bé sinh thiếu tháng thường không phát triển được đầy đủ,” nghiên cứu viên chính – bác sĩ Cynthia Rogers, một phó giáo sư tâm thần nhi khoa đang điều trị cho các bệnh nhân ở bệnh viện Nhi khoa St. Louis đã nói như vậy.

“Nhưng sữa mẹ đã cho thấy rất có ích cho sự phát triển của các cơ quan khác, do đó, chúng tôi muốn quan sát tác động của sữa mẹ trên não. Với những hình chụp cộng hưởng từ, chúng tôi thấy rằng trẻ được cho bú nhiều sữa mẹ có thể tích não lớn hơn. Điều này rất quan trọng vì nhiều nghiên cứu khác đã cho thấy mối liên quan giữa thể tích và sự phát triển nhận thức”.

Nghiên cứu này gồm 77 trẻ nhũ nhi sinh thiếu tháng. Các nhà nghiên cứu xem xét hồi cứu lượng sữa mẹ mà các trẻ này đã tiếp nhận trong khi được chăm sóc ở NICU. Sau đó, các nhà nghiên cứu đã thực hiện chụp cắt lớp não của các trẻ nhũ nhi này vào thời điểm ngày dự sinh đủ tháng của mỗi trẻ.

Tất cả các trẻ em được sinh sớm trước ít nhất 10 tuần, với tuổi thai trung bình khoảng 26 tuần, hoặc sinh sớm trước khoảng 14 tuần. Vì các trẻ này vẫn đang phát triển nên các trẻ sinh non điển hình có não nhỏ hơn trẻ nhũ nhi sinh đủ tháng.

Tác giả đầu tiên Erin Reynolds, một kỹ thuật viên nghiên cứu ở phòng thí nghiệm Roger đã nói rằng khi đo đạc các tác động của sữa me trên não trẻ em, các nhà nghiên cứu không phân biệt được giữa sữa từ các bà mẹ đang nuôi con và sữa được các bà mẹ khác tặng. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu cũng đã tập trung vào ảnh hưởng của sữa mẹ nói chung.

Reynold nói rằng: “Vì lượng sữa mẹ gia tăng, do đó, trẻ có cơ hội có 1 diện tích bề mặt vỏ não lớn hơn. Vỏ não là 1 phần của não bộ có liên quan đến nhận thức, do đó, chúng tôi giả định rằng vỏ não càng nhiều sẽ giúp cải thiện nhận thức vì trẻ em tăng trưởng và phát triển”.

Trẻ sinh non là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến những vấn đề về thần kinh ở trẻ em và có liên hệ đến các rối loạn tâm thần muộn ở tuổi thiếu nhi. Roger và nhóm của cô có kế hoạch theo dõi các trẻ trong nghiên cứu suốt nhiều năm đầu đời của chúng để xem chúng lớn lên như thế nào, tập trung quan sát sự vận động, nhận thức và phát triển xã hội.

Vì các trẻ em ngày càng lớn lên nên các nhà nghiên cứu tin rằng họ sẽ có thể xác định được những tác động của việc cho bú mẹ sớm trên kết cục phát triển về sau.“Chúng tôi muốn quan sát có phải là sự khác biệt về kích thước của não có 1 tác động trên bất kỳ quá trình phát triển nào của trẻ hay không”, Roger nói.

“Các bác sĩ chuyên khoa sơ sinh đã tin rằng sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ nhũ nhi sinh non. Chúng tôi muốn quan sát xem có phải là đã có thể phát hiện ảnh hưởng của sữa mẹ trên não bộ của các trẻ này trong giai đoạn sớm của cuộc đời và có phải lợi ích của sữa mẹ đã xuất hiện một cách nhanh chóng và đã phát triển theo thời gian”.

Roger nói rằng việc tiến hành các nghiên cứu về sau nữa là rất cần thiết để xác định 1 cách đặc hiệu sữa mẹ ảnh hưởng lên não như thế nào và chất nào tiêu biểu trong sữa mẹ dường như có khả năng khởi phát sự phát triển não.

Cô đã giải thích rằng bởi vì tất cả các trẻ em trong nghiên cứu đều được sinh non nên do đó, không thể làm rõ được liệu sữa mẹ có mang đến những lợi ích tương tự cho các trẻ sinh đủ tháng hay không.

Reynolds E. và cộng sự. Các tác động của việc tiêu thụ sữa mẹ trong tháng đầu đời trên sự phát triển não sớm ỏ trẻ nhu nhi sinh non. Tóm tắt được trình bày ở Hội thảo các Hiệp Hội Nhi Khoa Hàn Lâm năm 2016, ngày 3 tháng 5 năm 2016.

]]>
https://procarevn.vn/tre-sinh-thieu-thang-co-nao-tang-truong-manh-me-nho-sua-me-10002/feed/ 0
10 lầm tưởng phổ biến nhất về bệnh táo bón ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ https://procarevn.vn/10-lam-tuong-pho-bien-nhat-ve-benh-tao-bon-o-tre-so-sinh-va-tre-nho-10003/ https://procarevn.vn/10-lam-tuong-pho-bien-nhat-ve-benh-tao-bon-o-tre-so-sinh-va-tre-nho-10003/#respond Thu, 19 Dec 2019 06:22:12 +0000 https://procarevn.vn/?p=10003 Táo bón có thể là: mang bản chất hữu cơ (tức là do nguyên nhân từ thực thể như bệnh Hirschsprung, hay nguyên nhân từ hệ nội tiết như suy giáp); hoặc có thể mang bản chất chức năng (không xác định được cụ thể điểm bất thường nào thuộc lĩnh vực giải phẫu, sinh hóa và sinh lý).

10 lầm tưởng phổ biến nhất về bệnh táo bón ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ 1

Thách thức lớn nhất đến từ việc kiểm soát chứng táo bón này từ thời thơ ấu (phòng ngừa, chẩn đoán và điều trị). Mục đích của điều trị là làm mềm phân, tăng cường nhu động đường ruột và giải quyết các yếu tố tâm lý – xã hội.

Đã có tương đối nhiều hướng dẫn được công bố để hỗ trợ chẩn đoán và điều trị chứng táo bón chức năng.

Tuy nhiên, việc điều trị chứng táo bón vẫn còn đi theo nhiều cách thức sai lầm không qua kiểm chứng, chính chúng là nguyên nhân phức tạp hóa và kéo dài sự đau đớn của trẻ em bị táo bón và thậm chí làm trầm trọng thêm nỗi lo của cha mẹ và người chăm sóc các bé.

Bài viết này giúp các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và phụ huynh được an tâm nhờ chỉ ra sự thật, đồng thời đem lại lợi ích về lâu dài chính là loại bỏ lo lắng và giải tỏa tâm lý.

Sau đây là 10 điều lầm tưởng phổ biến nhất trong dân gian về bệnh táo bón

1. Trẻ sơ sinh cần phải đi cầu mỗi ngày

Trẻ nhỏ và trẻ em có thể đi cầu mỗi ngày hoặc thậm chí 2-3 lần một tuần. Miễn là các bé đi cầu thoải mái, nhẹ nhàng và phân không cứng thì tần suất này vẫn được xem là bình thường và chấp nhận được.

2. Khi chẩn đoán bệnh cho trẻ bị táo bón, cần phải chụp X-quang ổ bụng

Không bắt buộc phải áp dụng quy trình chụp X-quang vùng bụng để chẩn đoán táo bón chức năng. Tuy nhiên, trong trường hợp không thể kiểm tra bằng các phương pháp vật lý hoặc kết quả không đáng tin cậy, thì nên chụp X-quang cho những ca nghi ngờ bé bị tắc nghẽn phân.

3. Tăng lượng nước uống có thể giúp điều trị chứng táo bón

Đáng tiếc thay, chưa từng có bằng chứng là phương pháp này hiệu quả. Các công bố hướng dẫn hiện hành đều khuyến nghị chỉ duy trì lượng nước uống bình thường dành cho độ tuổi, ngay cả đối với trẻ em bị táo bón.

4. Táo bón có thể được chữa khỏi bằng cách tăng cường ăn chất xơ

Ngạc nhiên thay, cho đến nay vẫn chưa có bằng chứng nào cho thấy là lời khuyên lâu đời này thực sự có tác dụng. Vậy nên, hãy cứ ăn lượng chất xơ vừa phải, phù hợp với độ tuổi thôi.

5. Đối với trẻ nhỏ đang trong độ tuổi dùng sữa bột, có thể điều trị táo bón bằng cách pha loãng sữa

Phương pháp này chưa được kiểm chứng là sẽ đảm bảo vừa hiệu quả vừa an toàn. Có khả năng lượng dinh dưỡng trẻ cần hấp thu sẽ bị ảnh hưởng.

6. Có thể thường xuyên dùng thuốc nhét hậu môn để kích thích đại tiện

Cách này có thể nguy hiểm và gây phụ thuộc thuốc, tạo cảm giác khó chịu. Thuốc có thể giúp làm mềm phân, thải bỏ phân còn sót nhưng không nên dùng hàng ngày.

7. Thường xuyên sử dụng thuốc nhuận tràng (lactulose) rất nguy hiểm vì có thể gây phụ thuộc thuốc

Lactulose an toàn và hiệu quả khi sử dụng đúng lúc và đủ liều. Lactulose có thể sử dụng trong thời gian dài cho đến khi chữa dứt táo bón.

8. Men vi sinh (Probiotics) có thể chữa táo bón

Đáng buồn rằng vấn đề này vẫn chưa được xác nhận là chính xác, vì vậy phương pháp không được khuyến khích áp dụng. Cho đến hiện tại, các bằng chứng chưa đủ chắc chắn để đảm bảo tính an toàn trong việc sử dụng thường xuyên, dù là ở hình thức bổ sung hay điều trị chính.

9. Táo bón nguy hiểm vì có khả năng dẫn đến thủng ruột hoặc hấp thu độc tố gây tử vong

Chưa từng có bằng chứng là những hậu quả “tiềm ẩn” này của táo bón có thể xảy ra. Hiểu lầm này có thể gây ra nỗi sợ hãi không cần thiết, lo lắng, dẫn đến xử lý vấn đề một cách sai lầm.

10. Khuyến cáo tập cho trẻ tự đi cầu từ năm 1 tuổi để ngăn ngừa táo bón

Mặc dù việc tập kỹ năng tự đi cầu cho trẻ là rất quan trọng trong vấn đề phòng chống táo bón chức năng, áp dụng cho tất cả trẻ em một tuổi thậm lại có thể gây hại.

Thời điểm bắt đầu huấn luyện cho trẻ được quyết định dựa vào đánh giá liệu trẻ đã phát triển sẵn sàng chưa, có thể vào khoảng giữa 2-4 tuổi, khi đã thu được các thông số đánh giá mức độ hoạt động và hành vi của trẻ.

Theo Bác sĩ Felizardo N. Gatcheco, MD, MSc, FPPS, FPSPGHAN

]]>
https://procarevn.vn/10-lam-tuong-pho-bien-nhat-ve-benh-tao-bon-o-tre-so-sinh-va-tre-nho-10003/feed/ 0
Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh là con của bà mẹ nhiễm HIV, con của bà mẹ đái tháo đường, dị ứng [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-so-sinh-la-con-cua-ba-me-nhiem-hiv-dai-thao-duong-di-ung-9988/ https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-so-sinh-la-con-cua-ba-me-nhiem-hiv-dai-thao-duong-di-ung-9988/#respond Wed, 18 Dec 2019 05:31:04 +0000 https://procarevn.vn/?p=9988  1

1. Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh của những bà mẹ bị đái tháo đường

Hạ đường huyết hay gặp ở 25-50% những trẻ sơ sinh có mẹ bị đái tháo đường và 15-25% trẻ có mẹ bị đái tháo đường thai kỳ. Hạ đường huyết ở trẻ sơ sinh có thể gây tử vong, do đó cần chăm sóc cẩn thận những trẻ có tiền sử mẹ bị đái tháo đường. Ngoài ra, những trẻ sơ sinh của những bà mẹ đái tháo đường còn dễ bị hạ can-xi và magne, thiếu sắt, tăng bilirubin, đa hồng cầu và suy hô hấp.

Những người mẹ bị đái tháo đường thường có thai to, dễ bị chấn thương trong quá trình sinh. Do đó, tỉ lệ mổ lấy thai ở những bà mẹ này cao hơn. Hạ đường huyết thường xảy ra trong vài giờ đầu tiên sau sinh. Mặc dù hầu hết trẻ sơ sinh không có triệu chứng, các biểu hiện có thể gặp của hạ đường huyết như trẻ kích thích, khó chịu, hoặc thờ ơ, kém ăn, giảm trương lực cơ, tiếng khóc yếu, co giật. Hạ đường huyết đòi hỏi một sự can thiệp kéo dài tới 1 tuần.

Xử trí hạ đường huyết khác nhau tùy vào trường hợp cụ thể. Nhìn chung, nếu trẻ không có biểu hiện triệu chứng và đường huyết cao hơn 35 mg/dl thì chỉ cần cho trẻ bú sữa mẹ sớm và theo dõi chặt chẽ đường huyết. Trẻ cần được kiểm tra đường huyết trong 1-2 giờ đầu, sau đó là mỗi 6-8 giờ. Nếu đường huyết thấp hơn 35mg/dl, có hoặc không có biểu hiện trên lâm sàng, việc truyền đường cho trẻ là cần thiết. Giảm dần lượng đường truyền khi trẻ bú được nhiều hơn.

Bú mẹ từ lâu đã được công nhận là phương pháp dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ kể cả với những trẻ sinh ra từ các bà mẹ bị đái tháo đường. Cho con bú mẹ cũng đem lại nhiều lợi ích cho các bà mẹ bị đái tháo đường hoặc đái tháo đường thai kỳ cũng như với các con của họ, giúp giảm nguy cơ béo phì và đái tháo đường ở các trẻ sau này. Nhưng với các bà mẹ bị đái tháo đường, quyết định cho con bú là một quyết định khó khăn về tâm lý; các cán bộ y tế cần giúp bà mẹ vượt qua khó khăn này.

Trong trường hợp trẻ không được bú mẹ hoàn toàn nên giới thiệu công thức dinh dưỡng với đạm chất lượng [39][40].

Những bà mẹ bị đái tháo đường thường sinh con to nên trẻ rất dễ bị hạ đường huyết trong những giờ đầu. Trẻ cần bú mẹ sớm và được phát hiện kịp thời các dấu hiệu hạ đường huyết cũng như các biểu hiện rối loạn chuyển hóa khác.

Trong trường hợp trẻ không được bú mẹ hoàn toàn nên được giới thiệu công thức dinh dưỡng với đạm chất lượng gần với sữa mẹ giúp trẻ tăng cân khỏe mạnh, phòng ngừa nguy cơ thừa cân, béo phì.

2. Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh có mẹ nhiễm HIV

– Các bà mẹ được xác nhận nhiễm HIV cần được cung cấp liệu trình điều trị suốt đời bằng thuốc ARV hoặc điều trị dự phòng bằng ARV để giảm thiểu lây truyền HIV qua sữa mẹ.

– Không nuôi con bằng sữa mẹ nếu việc nuôi dưỡng bằng thức ăn thay thế được chấp nhận, khả thi, đáp ứng được, lâu dài và an toàn.

– Nếu việc dừng bú mẹ gặp khó khăn, tham vấn cách nuôi dưỡng trẻ hợp lý nhất, chú ý khuyên cho bú mẹ hoàn toàn trong vài tháng đầu tiên [39][40]

3.Dinh dưỡng cho trẻ có nguy cơ dị ứng

3.Dinh dưỡng cho trẻ có nguy cơ dị ứng 1

Dị ứng là một rối loại quá mẫn của hệ miễn dịch. Phản ứng dị ứng xảy ra để chống lại các chất vô hại trong môi trường được gọi là chất gây dị ứng; các phản ứng này xảy ra nhanh chóng và có thể phòng ngừa được [7].

3.1. Nguy cơ dị ứng

– Nguy cơ dị ứng thấp: khoảng 15% khi trẻ sinh ra ở những gia đình không có tiền sử dị ứng (Tuy nhiên, thực tế có đến 50% số trẻ bị dị ứng được sinh ra ở những gia đình không có tiền sử dị ứng.)

– Nguy cơ dị ứng trung bình: 20-40% khi trẻ sinh ra trong gia đình có bố hoặc mẹ hoặc anh chị ruột bị dị ứng.

– Nguy cơ dị ứng cao: Nguy cơ dị ứng là 50-80% khi trẻ sinh ra trong gia đình có cả bố và mẹ bị dị ứng.

3.1. Nguy cơ dị ứng 1

3.2. Các cấp độ phòng ngừa dị ứng

– Phòng ngừa cấp độ 1: Áp dụng đối với tất cả các trẻ khỏe mạnh nhằm phòng ngừa xảy ra dị ứng, phòng ngừa hình thành các chuỗi phản ứng dẫn đến dị ứng.

– Phòng ngừa cấp độ 2: Với trẻ có tiền sử bị dị ứng nhằm phòng ngừa dị ứng tái phát và tiến triển nặng hơn.

– Phòng ngừa cấp độ 3: Với trẻ đã bị dị ứng mạn tính, thường xuyên nhằm phòng ngừa dị ứng tiến triển nặng.

3.3. Nguyên tắc phòng ngừa dị ứng cấp độ 1

– Chậm tiếp xúc với dị nguyên trong 3-6 tháng đầu đời: dị nguyên ở giai đoạn này chủ yếu từ đạm trong công thức dinh dưỡng có nguồn gốc sữa bò, trứng gà. Các trẻ này sẽ nhận được nguồn dị nguyên cao gấp 106 lần so với trẻ được bú mẹ hoàn toàn.

– Bú mẹ hoàn toàn ít nhất trong 6 tháng đầu là phương pháp hiệu quả nhất giúp phòng ngừa dị ứng. Trong trường hợp trẻ không được bú sữa mẹ hoặc sữa mẹ không đủ thì nên cân nhắc dùng công thức dinh dưỡng đạm whey thủy phân một phần hoặc đạm casein thủy phân toàn phần [3][7].

3.4. Dinh dưỡng phòng ngừa dị ứng trong 1.000 ngày đầu đời.

3.4. Dinh dưỡng phòng ngừa dị ứng trong 1.000 ngày đầu đời. 1

* Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn được khuyến khích đến ít nhất 6 tháng tuổi để có thể làm giảm tỉ lệ mắc bệnh viêm da dị ứng ở trẻ em dưới 2 tuổi, giảm tỉ lệ khò khè, và giảm tỉ lệ dị ứng protein sữa bò trong 2 năm đầu tiên [7].

* Với trẻ nhũ nhi có nguy cơ dị ứng trung bình và nguy cơ dị ứng cao mà không được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời, công thức dinh dưỡng có đạm thủy phân sẽ đem lại nhiều lợi ích, giúp phòng ngừa dị ứng và dị ứng với đạm sữa bò.

– Công thức dinh dưỡng có đạm thủy whey thủy phân một phần và công thức dinh dưỡng có đạm casein thủy phân toàn phần được được chứng minh lâm sàng có tác dụng phòng ngừa viêm da dị ứng và dị ứng đạm sữa bò nếu được sử dụng thay thế công thức dinh dưỡng có đạm sữa bò còn nguyên vẹn. Công thức dinh dưỡng đạm whey thủy phân một phần được ưu tiên chọn hơn trong phòng ngừa dị ứng cho trẻ bởi vì có mùi vị dễ uống hơn và có giá thành phù hợp hơn công thức đạm casein thủy phân toàn phần.

– Có bằng chứng cho thấy công thức đạm đậu nành không có tác dụng phòng ngừa dị ứng.

– Công thức dinh dưỡng axit amin thì cần nghiên cứu nhiều hơn.

* Khuyến nghị về ăn dặm:

– Cho trẻ ăn dặm (ăn thức ăn bổ sung) khi trẻ đã được tròn 6 tháng tuổi.

– Các dấu hiệu cho biết trẻ có thể ăn dặm: trẻ ngồi vững, tự giữ cổ thẳng, phối hợp mắt – tay – miệng tốt và có thể xoay đầu từ chối thức ăn nếu không thích.

– Nên cho trẻ ăn từng loại thức ăn một, mỗi 3-5 ngày lại cho làm quen với một loại thức ăn mới.

– Trong giai đoạn tập ăn dặm có thể bắt đầu cho ăn thêm các loại trái cây có tính axit (như dâu, cà chua, cam quýt) và rau quả. Những loại này có thể gây phát ban quanh miệng hoặc bị dị ứng nhưng chúng thường không gây ra các phản ứng toàn thân.

– Không nên sử dụng đạm sữa bò còn nguyên vẹn (sữa bò tươi hoặc sữa bột nguyên kem) làm thức uống chính cho trẻ dưới 1 tuổi, vì chúng làm quá tải chất tan ở thận và có hàm lượng sắt thấp.

– Không nên cho trẻ ăn nguyên hạt vì có nguy cơ lọt vào đường thở. Có thể cho trẻ làm quen với đậu phộng (lạc) và các loại hạt với hình thức bơ đậu phộng (bơ lạc) hoặc các chế phẩm khác.

* Những thức ăn bổ sung có tính gây dị ứng cao có thể cho trẻ tập ăn vào lúc 6 tháng tuổi, khi trẻ đã dung nạp được vài thức ăn cụ thể.

– Các dữ liệu mới cho thấy việc chậm cho trẻ làm quen với thức ăn đặc, nhất là với thực phẩm có nguy cơ gây dị ứng cao, có thể làm tăng nguy cơ dị ứng thức ăn hoặc viêm da dị ứng.

– Các dữ liệu mới cho thấy việc cho trẻ làm quen với thực phẩm có khả năng gây dị ứng cao từ sớm (tức là từ lúc trẻ bắt đầu ăn dặm) có thể phòng ngừa dị ứng cho trẻ nhũ nhi và trẻ em.

* Bà mẹ có thể cho trẻ làm quen với các loại thực phẩm có thể gây dị ứng cao theo cách như sau:

– Cho trẻ ăn các loại thực phẩm gây dị ứng cao sau khi trẻ đã ăn và dung nạp được một số thức ăn bổ sung khác.

– Cho trẻ làm quen với hương vị ban đầu của các thực phẩm có thể gây dị ứng tại nhà, không nên thực hiện tại nhà trẻ hoặc nhà hàng

-Lưu ý: Tư vấn cho cha mẹ trẻ biết một số loại thực phẩm như đậu phộng nếu có phản ứng dị ứng thì thường xảy ra trong lần ăn đầu tiên.

– Tăng dần số lượng thực phẩm gây dị ứng cao nếu không có phản ứng

– Làm quen với các thức ăn khác với tốc độ một loại thức ăn mới trong mỗi 3-5 ngày, nếu không có phản ứng dị ứng xảy ra[3][7].

Theo Tài liệu Khuyến nghị dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời dành cho Nhân viên Y Tế – Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội Phụ Sản Việt Nam, Viện Dinh Dưỡng Nestlé Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

[3] Bộ Y Tế – Viện dinh dưỡng Quốc gia (2016). Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam. Nhà xuất bản Y học.

[7] Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội sản phụ khoa và SĐCKHVN (2014). Phòng ngừa ban đầu (cấp độ 1) tiến trình dị ứng thông qua dinh dưỡng. Hướng dẫn dành cho nhân viên y tế.

[39] WHO | Archived: Guidelines on HIV and infant feeding 2010. WHO. http://www.who.int/maternal_child_adolescent/documents/9789241599535/en/. Accessed January 15, 2017.

[40] WHO | Essential Nutrition Actions. WHO. http://www.who.int/nutrition/publications/infantfeeding/essential_nutrition_actions/en/. Accessed January 16, 2017.

 

]]>
https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-so-sinh-la-con-cua-ba-me-nhiem-hiv-dai-thao-duong-di-ung-9988/feed/ 0
Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân non tháng [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-so-sinh-nhe-can-non-thang-9984/ https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-so-sinh-nhe-can-non-thang-9984/#respond Wed, 18 Dec 2019 04:53:21 +0000 https://procarevn.vn/?p=9984 Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh nhẹ cân non tháng [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] 1

Chậm tăng trưởng ngoài tử cung luôn là một thách thức lớn trong quá trình nuôi dưỡng trẻ non tháng/ nhẹ cân, có tỉ lệ thay đổi từ 43-97% tùy nghiên cứu. Chậm tăng trưởng ngoài tử cung có liên quan với chậm phát triển tâm thần – vận động về sau.

Dinh dưỡng sau sinh kém là một yếu tố quan trọng dẫn đến chậm tăng trưởng; hầu hết các trẻ rất non tháng đều bị thiếu hụt năng lượng và protein nặng nề trong suốt giai đoạn nằm điều trị tại khu chăm sóc sơ sinh tăng cường. Dinh dưỡng tích cực sớm, bao gồm cả qua đường tiêu hóa và tĩnh mạch, được dung nạp tốt ở trẻ rất non tháng và giúp cải thiện tăng trưởng [33].

1. Nguyên tắc

– Cho trẻ ăn sớm (nếu không có chống chỉ định) để dự phòng hạ đường huyết

– Cho ăn đường tiêu hóa tối thiểu (trophic/ minimal feeding) ở trẻ < 32 tuần hay <1500g

– Cho ăn nhiều lần trong ngày (8-12 bữa/ngày)

– Tăng lượng sữa thận trọng (≤1000g: 15-20ml/kg/ ngày; >1000g: 30ml/kg/ ngày)

– Ưu tiên sữa mẹ (hay sữa mẹ pha với chất làm giàu Human Milk Fortifiers – HMF) khi cần thiết. Khi mẹ không có/ không đủ sữa, sử dụng sữa công thức dành cho trẻ nhẹ cân non tháng hay sữa từ ngân hàng sữa mẹ (nguồn sữa phải được kiểm định và bảo quản đúng tiêu chuẩn). [9][22][33][40]

2. Nhu cầu năng lượng

Năng lượng mục tiêu: 110 – 130kcal/kg/ngày, có thể tới 150-160kcal/kg/ngày; để đạt mục tiêu tăng trưởng:

– Cân nặng ≥15 g/kg/ ngày

– Chiều cao 0,9 cm/ tuần

– Vòng đầu 0,9 cm/ tuần

3. Nhu cầu nước cơ bản

Cung cấp 60–80 ml/kg/ngày, tăng 10-20 ml/kg/ ngày (tùy cân nặng, Natri/ máu, lượng nước tiểu, tình trạng huyết động học) để đạt 120–150 ml/kg/ ngày vào ngày 7 và 180 – <200 ml/kg/ ngày trong tuần thứ 2.

4. Đường nuôi ăn

4. Đường nuôi ăn 1

– Đối với trẻ ≥ 34 tuần tuổi: ăn sữa qua ống thông dạ dày, đổ thìa hay bú mẹ trực tiếp

– Đối với trẻ < 34 tuần tuổi hay bệnh lý nặng nề: Nuôi dưỡng tĩnh mạch trong những ngày đầu, sau đó kết hợp nuôi tĩnh mạch + ăn qua ống thông rồi ăn qua ống thông hoàn toàn.

5. Nuôi ăn tích cực sớm ở trẻ < 32w hay <1500g trong tuần đầu

– Tĩnh mạch

  • Glucose: khởi đầu 6 mg/kg/phút trong ngày đầu, tăng 2 mg/kg/phút mỗi ngày để đạt 10-12mg/kg/ phút, sao cho đường huyết 50–120 mg/dl
  • Amino acids: khởi đầu 3.0 g/kg/ngày từ những giờ đầu, tăng 0.5–1.0 g/kg/ngày, để đạt 4.0 g/kg/ngày
  • Lipid: khởi đầu 0.5–1.0 g/kg/ngày trong 24 giờ đầu, tăng 0.5–1.0 g/kg/ngày, để đạt 3.0–3.5 g/kg/ngày nếu không có chống chỉ định.

– Tiêu hóa: “Cho ăn đường tiêu hóa tối thiểu” để nhằm thúc đẩy đường tiêu hóa trưởng thành, cải thiện sự dung nạp và giảm thiểu rối loạn chức năng gan. Bắt đầu khi trẻ được 24-48 giờ tuổi (sau 48 giờ nếu ngạt nặng/suy hô hấp, nhiễm trùng huyết, đã được đặt catheter rốn hay thở máy). Gavage liên tục hay ngắt quãng trong 4-7 ngày với thể tích ban đầu 10ml/kg/ ngày, tăng dần đạt ≤ 24 mL/kg/ ngày.

6. Dinh dưỡng tại viện khi trẻ ổn định

– Tiếp tục cho ăn sữa mẹ hoàn toàn.

– Bổ sung chất làm giàu vào sữa mẹ khi ăn được sữa mẹ 50ml/kg/ ngày mà trẻ có nhỏ cân so với tuổi thai (cân nặng theo tuổi sau kinh chót nằm dưới bách phân vị thứ 10 trên biểu đồ tăng trưởng của trẻ non tháng Fenton 2013). Chất làm giàu sữa mẹ có hàm lượng đạm, khoáng chất cao. Chú ý theo dõi sự dung nạp: phù, mất nước, bất dung nạp lactose, tiêu chảy, đầy hơi, chậm làm trống dạ dày và nôn.

– Nếu không có/ không đủ sữa mẹ: dùng sữa công thức đặc biệt dành cho trẻ non tháng, nhẹ cân để giúp tăng trưởng nhanh, bắt kịp tăng trưởng của những trẻ sinh đủ tháng.

6. Dinh dưỡng tại viện khi trẻ ổn định 1

Biểu đồ tăng trưởng của trẻ non tháng Fenton 2013 – Nữ

6. Dinh dưỡng tại viện khi trẻ ổn định 2

Biểu đồ tăng trưởng của trẻ non tháng Fenton 2013 – Nam

7. Dinh dưỡng cho trẻ non tháng, nhẹ cân đến tròn 6 tháng

7. Dinh dưỡng cho trẻ non tháng, nhẹ cân đến tròn 6 tháng 1

Trẻ cần được bú mẹ tối đa, bú cả ngày lẫn đêm theo nhu cầu của trẻ nhưng phải đạt ít nhất 8 bữa bú /24 giờ; chỉ bổ sung thêm các loại dinh dưỡng công thức khi trẻ đã bú hết sữa mẹ mà vẫn còn đói hoặc không tăng cân như yêu cầu.  Nếu trẻ không được bú mẹ thì nên cung cấp cho trẻ sữa công thức dinh dưỡng đặc biệt dành cho trẻ nhẹ cân, non tháng. Khi trẻ được 5 kg hoặc khi bắt kịp cân nặng trẻ sinh đủ tháng thì chuyển sang sữa công thức tiêu chuẩn dành cho trẻ sinh đủ tháng cùng độ tuổi.

 Với những trẻ sinh non giai đoạn này, bổ sung vi chất dinh dưỡng là rất quan trọng.

* Vitamin A: Bổ sung từ 700-1500 IU vitamin A từ 1 tuần tuổi sau sinh tới khi trẻ đạt 2000g.

* Vitamin D: bổ sung 400 IU-1000 IU vitamin D từ 1 tuần tuổi sau sinh.

* Vitamin K: Vitamin K1 tiêm bắp 1 liều duy nhất ngay sau khi sinh: 1mg khi >1000g và 0,3mg/kg khi ≤1.000g.

* Sắt: trẻ nhẹ cân cần được cung cấp sắt với liều 2-3mg/kg/ngày từ 2 tuần tuổi cho đến 12 tháng tuổi.

* Kẽm: với trẻ cân nặng dưới 1500g cần cung cấp 0,5-1,8 mg/kg/ngày cho tới khi được 2000g.

* Can-xi và phốt pho: với trẻ < 1500g cần được cung cấp can-xi 2mmol/kg/ngày và phốt pho 0,5 mmol/kg/ngày cho đến khi được 2.000g [40]

Một số sản phẩm thay thế sữa mẹ dành cho trẻ sinh non theo khuyến cáo của Tổ Chức Y Tế Thế Giới (WHO)  Một số sản phẩm dinh dưỡng có thể thay thế sữa mẹ dựa vào các thành phần dinh dưỡng của chúng. Tuy nhiên, các sản phẩm này không chứa các hoạt chất sinh học chống nhiễm khuẩn, kháng thể và các hóc – môn tăng trưởng như sữa mẹ.

* Sữa công thức đặc biệt dành cho trẻ non tháng nhẹ cân (Preterm formula – PTF)

So với các sữa công thức khác, sữa được thiết kế riêng dành cho trẻ nhẹ cân, non tháng giàu năng lượng (80 kcal/100ml), giàu protein, khoáng chất và vitamin hơn. Dù đường và muối khoáng cao hơn, nồng độ thẩm thẩm thấu của sữa cho trẻ nhẹ cân non tháng vẫn chỉ ở mức 250-320 mOsm/kg H2O. Với 150 ml/kg/ngày, sữa này cung cấp cho trẻ protein 3g/kg/ngày.

* Công thức dinh dưỡng cho trẻ sinh non khi xuất viện (Post discharge formula)

Khi thiếu/ không có sữa mẹ, sử dụng công thức dinh dưỡng cho trẻ sinh non sau khi xuất viện cho đến khi trẻ được 5 kg. Đây thực chất là công thức dinh dưỡng trung gian giữa sữa dành cho trẻ sinh non và trẻ đủ tháng, thành phần chứa nhiều đạm, can-xi, kẽm, đồng, phospho và vitamin. Mỗi 100 ml chứa 74-80 kcal năng lượng, hàm lượng đạm từ 2,8-2,9g/100 kcal trở lên và nồng độ thẩm thấu 250-320 mOsm/kg H2O.

* Sữa công thức tiêu chuẩn (Term formula)

Sữa này được thiết kế dành cho trẻ đủ tháng mô phỏng theo các thành phần chủ yếu của sữa mẹ. Mỗi 100 ml sữa có khoảng 67 Kcal, 1,2 -1,3g protein, 50 mg can-xi, 30 mg phospho. Sữa này chỉ sử dụng khi trẻ nhẹ cân, non tháng đã > 5 kg hoặc đã đuổi kịp trẻ sinh đủ tháng trong vòng năm đầu tiên mà không có sữa mẹ

8. Dinh dưỡng cho trẻ non tháng, nhẹ cân từ 6-24 tháng

8. Dinh dưỡng cho trẻ non tháng, nhẹ cân từ 6-24 tháng 1

Ở độ tuổi này trẻ nhẹ cân, non tháng vẫn cần được bú mẹ tối đa nếu có thể. Giai đoạn này thường trẻ đã được trên 5-6 kg cho nên nếu trẻ không được đủ sữa mẹ thì có thể cho trẻ uống bổ sung các công thức dinh dưỡng tiếp theo dành cho trẻ trên 6 tháng. Với những bé chưa bắt kịp tăng trưởng, có thể tiếp tục sử dụng sữa dành cho bé non tháng giai đoạn chuyển tiếp.

Từ 6 tháng tuổi trở lên, bên cạnh sữa mẹ (hay sữa công thức nếu trẻ không được bú mẹ) có thể áp dụng chế độ ăn dặm như với trẻ sinh đủ tháng.

Từ 12 tháng tuổi trở lên, dinh dưỡng giống như trẻ thường [40].

Trẻ sinh non tháng, nhẹ cân hoặc rất nhẹ cân nên được bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và tiếp tục bú mẹ càng lâu càng tốt cho đến khi trẻ được 2 tuổi. Có thể bổ sung chất làm giàu sữa mẹ (HMF- Human-milk fortifiers) trong giai đoạn đầu.

Nếu bà mẹ không đủ sữa mẹ hoặc trẻ không thể bú mẹ, nên cho trẻ ăn sản phẩm dinh dưỡng công thức dành cho trẻ nhẹ cân non tháng cho đến khi trẻ được 5 kg thì chuyển sang sản phẩm dinh dưỡng công thức tiêu chuẩn (công thức khởi đầu) phù hợp với lứa tuổi cho đến khi trẻ 6 tháng tuổi. Ưu tiên chọn công thức dinh dưỡng có đạm chất lượng gần giống sữa mẹ.

Từ 6 tháng tuổi trở đi, trẻ sinh non tháng, nhẹ cân hoặc rất nhẹ cân được nuôi dưỡng như những trẻ bình thường nếu đã bắt kịp tăng trưởng. Nếu không đủ sữa mẹ thì cho trẻ sử dụng công thức tiếp theo với đạm chất lượng giúp trẻ tăng cân khỏe mạnh. Khi trẻ được tròn 6 tháng tuổi thì cho trẻ ăn dặm giống như trẻ bình thường.

Theo Tài liệu Khuyến nghị dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời dành cho Nhân viên Y Tế – Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội Phụ Sản Việt Nam, Viện Dinh Dưỡng Nestlé Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

[9] Tổ chức Y tế Thế giới- Văn phòng khu vực tây Thái Bình Dương (2014). Chăm sóc sơ sinh thiết yếu, cẩm nang thực hành lâm sàng bỏ túi.

[22] Embleton ND. Optimal nutrition for preterm infants: Putting the ESPGHAN guidelines into practice. J Neonatal Nurs. 2013;19(4):130-133.

[33] Su B-H. Optimizing Nutrition in Preterm Infants. Pediatr Neonatol. 2014;55(1):5-13.

[40] WHO | Essential Nutrition Actions. WHO. http://www.who.int/nutrition/publications/infantfeeding/essential_nutrition_actions/en/. Accessed January 16, 2017.

 

]]>
https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-so-sinh-nhe-can-non-thang-9984/feed/ 0
Dinh dưỡng cho trẻ từ 6-24 tháng [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-tu-6-24-thang-tai-lieu-danh-cho-nhan-vien-y-te-9952/ https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-tu-6-24-thang-tai-lieu-danh-cho-nhan-vien-y-te-9952/#respond Tue, 10 Dec 2019 12:08:06 +0000 https://procarevn.vn/?p=9952 Dinh dưỡng cho trẻ từ 6-24 tháng [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] 1

Khi trẻ được tròn 6 tháng, để đáp ứng được nhu cầu phát triển của cơ thể, trẻ cần được cho ăn dặm để bổ sung chất dinh dưỡng đầy đủ và an toàn trong khi vẫn tiếp tục bú mẹ tối đa. Sữa mẹ trong giai đoạn này vẫn rất quan trọng vì cung cấp tới 60-70% nhu cầu năng lượng cho trẻ. Ngoài ra, sữa mẹ vẫn là nguồn cung cấp chủ yếu các axit béo thiết yếu và một lượng lớn các vi chất dinh dưỡng.

Sữa mẹ đặc biệt quan trọng lúc trẻ bị bệnh, khi mà trẻ không muốn ăn hầu hết các thức ăn bổ sung nhưng vẫn duy trì bú mẹ. Tiếp tục bú mẹ thường xuyên không những bảo vệ trẻ mà còn giúp bà mẹ chậm mang thai, và giúp giảm nguy cơ mắc bệnh và tử vong ở những trẻ có hoàn cảnh khó khăn.

Những nghiên cứu dọc ở các nước đang phát triển như Việt Nam cho thấy tiếp tục bú mẹ tối đa trong giai đoạn 6-12 tháng tuổi giúp trẻ chống chọi bệnh hô hấp cấp tính và bệnh tiêu chảy, tương tự giai đoạn dưới 6 tháng tuổi.

Trong trường hợp trẻ không đủ sữa mẹ hoặc mẹ phải đi làm từ 6 tháng thì nên chọn công thức dinh dưỡng tiếp theo phù hợp với độ tuổi của trẻ (sữa cho trẻ trên 6 tháng), ưu tiên dùng sữa công thức có đạm chất lượng [3][10][27][28][34][40] *

Hướng dẫn nguyên tắc cho ăn bổ sung đối với trẻ còn được bú mẹ của WHO

Hướng dẫn nguyên tắc cho ăn bổ sung đối với trẻ còn được bú mẹ của WHO 1

Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu và giới thiệu thức ăn bổ sung khi trẻ đủ 6 tháng tuổi (đủ 180 ngày) trong khi vẫn tiếp tục cho trẻ bú mẹ.

Tiếp tục cho trẻ bú mẹ theo nhu cầu cho đến khi trẻ 2 tuổi hoặc lâu hơn.

Thực hành nuôi dưỡng đúng, áp dụng những nguyên tắc chăm sóc tâm lý với trẻ

Vệ sinh tốt và xử lý, chế biến thực phẩm an toàn, thích hợp

Từ khi trẻ được tròn 6 tháng tuổi (180 ngày tuổi) bắt đầu cho trẻ ăn dặm với một lượng nhỏ thức ăn đặc và tăng dần số lượng thức ăn cùng với sự lớn lên của trẻ trong khi vẫn duy trì cho trẻ bú mẹ thường xuyên.

Tăng dần độ đặc và tính đa dạng thức ăn, tăng dần số bữa và lượng ăn mỗi bữa để phù hợp với sự lớn lên của trẻ, đáp ứng nhu cầu và khả năng tiêu hóa của trẻ.

Sử dụng thức ăn dặm bổ sung tăng cường vitamin và khoáng chất cần thiết cho trẻ.

Tăng lượng chất lỏng khi trẻ bị bệnh, bao gồm cả bú mẹ thường xuyên hơn, khuyến khích trẻ ăn thức ăn mềm, đa dạng, ngon miệng, và những món ăn mà trẻ ưa thích. Sau khi khỏi bệnh, cho trẻ ăn thường xuyên hơn so với bình thường và khuyến khích trẻ ăn tăng thêm 1 bữa/ngày trong 1 tháng hoặc cho tới khi đạt được tăng trưởng bình thường.

Hướng dẫn nguyên tắc cho ăn dặm đối với trẻ KHÔNG còn được bú mẹ của WHO

Hướng dẫn nguyên tắc cho ăn dặm đối với trẻ KHÔNG còn được bú mẹ của WHO 1

Đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu năng lượng cho trẻ. Do trẻ không được bú sữa mẹ nên nuôi trẻ bằng sữa công thức dinh dưỡng phù hợp lứa tuổi với đầy đủ dưỡng chất, có đạm chất lượng giúp trẻ tăng cân khỏe mạnh.

Ăn dặm: Từ từ tăng độ đặc và tính đa dạng thức ăn khi trẻ lớn hơn, đáp ứng với yêu cầu và khả năng tiêu hóa cũng như nhu cầu dinh dưỡng của trẻ.

Với những trẻ khỏe mạnh, cần cho trẻ ăn 3-4 bữa chính với thức ăn bổ dưỡng mỗi ngày và uống sữa. Ngoài ra còn cho trẻ ăn 1-2 bữa phụ để đáp ứng nhu cầu của trẻ.

Nên sử dụng các loại thực phẩm ngũ cốc ăn dặm giàu vitamin và các khoáng chất, đặc biệt bổ sung sắt để giảm nguy cơ thiếu máu do thiếu sắt.

Thực hành vệ sinh tốt và chế biến, xử lý thực phẩm thích hợp, an toàn.

Thực hành nuôi dưỡng áp dụng những nguyên tắc chăm sóc tâm lý với trẻ.

Tăng lượng chất lỏng khi trẻ bị bệnh, khuyến khích trẻ ăn thức ăn mềm, đa dạng, ngon miệng, và những món ăn mà trẻ ưa thích. Sau khi khỏi bệnh, cho  trẻ ăn thường xuyên hơn so với bình thường và khuyến khích trẻ ăn nhiều hơn

Giai đoạn 1.000 ngày đầu đời là giai đoạn của sổ tiềm năng giúp trẻ phát triển tối ưu. Cho trẻ ăn dặm thành công là rất quan trọng để ngăn ngừa suy dinh dưỡng. Sự tăng trưởng sút kém thường diễn ra trong giai đoạn này, khi mà thức ăn dặm bắt đầu dần thay thế sữa mẹ và tỉ lệ tiêu chảy gây ra bởi ô nhiễm thực phẩm, do cách chế biến không hợp vệ sinh là cao nhất. Nếu để xảy ra thấp còi giai đoạn này thì sau 2 tuổi rất khó đảo ngược được tình trạng dinh dưỡng này.

Sử dụng bột ngũ cốc ăn dặm có chứa nhiều vi chất dinh dưỡng cho trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi: Bột ngũ cốc dinh dưỡng chế biến sẵn có chứa sắt, vitamin A, kẽm được khuyến cáo để cải thiện tình trạng thiếu máu và thiếu vi chất là những vấn đề thường gặp ở trẻ 6 đến 24 tháng tuổi.

Bổ sung vitamin A: ở những khu vực có vấn đề về thiếu vitamin A. Ở Việt Nam hiện nay bổ sung vitamin A liều cao cho tất cả trẻ từ 6-36 tháng tuổi được tổ chức 2 lần/ năm (ngày 01/06 – ngày vi chất dinh dưỡng và kết hợp với ngày tiêm chủng của tháng 12 hàng năm) để làm giảm tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử vong ở trẻ em.

Bổ sung sắt: nhóm trẻ nhỏ có nhu cầu sắt cao hơn các nhóm trẻ khác bởi vì cơ thể của các bé phát triển nhanh chóng. Những trẻ sinh thường thì có dự trữ sắt tốt. Tuy nhiên, ngoài 6 tháng tuổi, hàm lượng sắt trong sữa không đủ để đáp ứng nhu cầu của trẻ và các thực bổ sung thường thiếu chất sắt khiến cho trẻ độ tuổi này dễ bị thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt.

Trẻ sinh non tháng hoặc nhẹ cân, sinh đa thai thì dự trữ sắt còn ít hơn và do đó có nguy cơ cao thiếu sắt ở độ tuổi 6 đến 24 tháng tuổi. Những nơi mà chế độ ăn uống không bao gồm thực phẩm tăng cường sắt hoặc tỉ lệ trẻ dưới 1 tuổi thiếu máu khoảng 40%, bổ sung sắt với liều 2mg/kg trọng lượng cơ thể mỗi ngày trong 03 tháng liên tục nên được áp dụng cho tất cả trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi.

Một số hành động thúc đẩy bổ sung sắt ở trẻ dưới 2 tuổi:

  • Trẻ dưới 2 tuổi bị thiếu máu nên được bổ sung 3mg sắt/kg/ngày cho tới khi lượng huyết sắc tố về bình thường theo tuổi.
  • Ở những vùng lưu hành sốt rét, việc bổ sung sắt nên được thực hiện kết hợp với các biện pháp thích hợp để ngăn ngừa, chẩn đoán và điều trị sốt rét.
  • Ở những vùng có tỉ lệ mắc giun móc từ 20%, việc bổ sung sắt có hiệu quả cần gắn với việc tẩy giun định kỳ.
  • Rửa tay trước khi chế biến thức ăn và trước khi cho trẻ ăn và sau khi đi vệ sinh, sử dụng hố xí hợp vệ sinh
  • Bổ sung sắt vào thức ăn bổ sung là biện pháp chống thiếu máu do thiếu sắt hiệu quả.
  • Trong trường hợp suy dinh dưỡng nặng, việc bổ sung sắt có thể được hoãn lại cho đến khi các vấn đề cấp tính liên quan đến nhiễm trùng được giải quyết và trẻ tăng cân trở lại.
  • Trong khi thiếu sắt là yếu tố chính gây thiếu máu, việc kiểm soát thiếu máu đòi hỏi một cách tiếp cận toàn diện.

Bổ sung kẽm cho các trường hợp tiêu chảy: Các bà mẹ và những người chăm sóc trẻ nên cung cấp cho trẻ 20 mg kẽm nguyên tố mỗi ngày trong 10-14 ngày (10mg/ngày đối với trẻ dưới 6 tháng tuổi).

Bổ sung I-ốt tối ưu cho trẻ: Ở những khu vực mà tỉ lệ hộ dân được dùng muối I-ốt <20%, các trẻ em ở đó nên được bổ sung I-ốt cho đến khi muối I-ốt được sử dụng rộng rãi. Liều khuyến cáo cho trẻ từ 6-23 tháng tuổi là 90μg/ngày và được uống hàng ngày hoặc 200mg/năm với liều dầu i-ốt duy nhất. Đối với trẻ 0-6 tháng tuổi, bổ sung I-ốt nên được thực hiện thông qua sữa mẹ. Như vậy, khi trẻ được bú mẹ thì người mẹ cần được bổ sung I-ốt theo như khuyến cáo[40][41][43].

Trẻ từ 6-12 tháng: Ăn dặm

Chỉ cho trẻ bú mẹ sau bữa ăn nếu trẻ không ăn hết khẩu phần, 2 giờ trước khi ăn tuyệt đối không cho trẻ bú mẹ. Nhiều trẻ trên 6 tháng tuổi do được bú mẹ liên tục nên không còn cảm giác đói và không ăn thức ăn dặm nên bị suy dinh dưỡng (do thiếu năng lượng) và thiếu máu

Bà mẹ có thể chế biến thức ăn dặm cho trẻ bằng những chất dinh dưỡng có sẵn ở địa phương (thức ăn dặm chế biến tại nhà). Thực hiện tô màu bát bột với đầy đủ ít nhất 5 trong 8 nhóm thức ăn, trong đó nhóm chất béo là bắt buộc.

Có thể chế biến bột ăn dặm cho trẻ với:

  • Bột gạo hoặc bột ngũ cốc dinh dưỡng
  • Thịt (gà, lợn hoặc bò) hoặc cá, cua, tôm, trứng, đậu phụ băm hoặc nghiền nhỏ ….VÀ
  • Rau xanh nghiền hoặc băm nhỏ như rau ngót, bí ngô, cà rốt, rau cải, rau muống, bắp cải, su hào VÀ
  • 6-10ml mỡ hoặc dầu ăn

Cho trẻ ăn ít nhất ¾ đến 1 bát mỗi bữa các thức ăn này:

  • 3 bữa bột cháo /ngày nếu trẻ còn bú mẹ
  • 3 bữa bột cháo / ngày nếu trẻ không còn bú mẹ và cho trẻ uống 2-3 cữ sản phẩm dinh dưỡng công thức.

Cho trẻ ăn thêm các loại trái cây (hoa quả) có sẵn tại địa phương như chuối, hồng xiêm, cam, xoài, đu đủ, táo…sau khi ăn và xen giữa các bữa chính.

Ngoài thức ăn dặm chế biến tại nhà, bà mẹ có thể cho trẻ ăn bổ sung bằng bột ngũ cốc dinh dưỡng chế biến sẵn của các công ty có uy tín trên thị trường để đảm bảo bé được cung cấp đầy đủ vi chất dinh dưỡng đặc biệt là chất sắt (ví dụ như bột gạo lức trộn sữa, bột lúa mì sữa, gà hầm cà rốt, cá và rau xanh, rau xanh bí đỏ…). Với 1 chén bột ăn dặm giàu sắt và vitamin C mỗi ngày có thể cung cấp cho trẻ được 50% nhu cầu sắt mỗi ngày, từ đó giúp giảm nguy cơ thiếu sắt và thiếu máu do thiếu sắt[3][10].

Trẻ từ 12-24 tháng

Tiếp tục cho trẻ bú mẹ, không nên cho trẻ bú trước bữa ăn 2 giờ

Cho trẻ ăn phối hợp các loại thức ăn sau: Cháo đặc, hoặc cơm nát, hoặc bún phở, mỳ với:

  • Thịt (gà, lợn, bò…) ninh nhừ hoặc băm hay thái nhỏ hoặc cá tôm, trứng,… VÀ
  • Rau xanh băm nhỏ như rau ngót, rau cải, rau muống, bắp cải, su hào,…VÀ
  • 6-10ml mỡ hoặc dầu

Cho trẻ ăn thức ăn 3 bữa/ngày, ít nhất 1 bát/bữa

Cho trẻ ăn các loại trái cây (hoa quả) có sẵn ở địa phương như chuối, hồng xiêm, cam, xoài, đu đủ…

Bổ sung sữa dành cho bé đang tăng trưởng khi lượng sữa mẹ không cung cấp đủ cho trẻ (Growing up Milk)

Không cho trẻ bú sữa bằng bình mà nên sử dụng cốc (thìa) hợp vệ sinh [3][10].

Cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời giúp trẻ đạt tăng trưởng và phát triển tối ưu, giảm nguy cơ thừa cân, béo phì, tăng cường sức đề kháng và giảm nguy cơ dị ứng.

Từ 6 tháng, để đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng cho sự tăng trưởng và phát triển, trẻ nên được nhận các thực phẩm dinh dưỡng bổ sung (ăn dặm) đầy đủ và an toàn trong khi vẫn tiếp tục được bú mẹ đến 2 tuổi hoặc hơn.

Trong những trường hợp trẻ không được bú mẹ hoàn toàn thì sản phẩm dinh dưỡng công thức có đạm chất lượng gần với sữa mẹ (hàm lượng đạm vừa đủ, chất lượng đạm cao, đạm Whey thủy phân một phần) sẽ giúp trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, tăng cường sức đề kháng, tăng cân khỏe mạnh và phòng ngừa thừa cân, béo phì cũng như giúp giảm nguy cơ dị ứng. Thức ăn dặm cho trẻ cần phải cung cấp đầy đủ dinh dưỡng với ít nhất 5 nhóm trong 8 nhóm thức ăn – bắt buộc phải có nhóm chất béo – chế biến phải hợp vệ sinh.

Bà mẹ có thể chế biến bột ăn dặm cho trẻ tại nhà bằng nguồn thức ăn sẵn có hay sử dụng bột ngũ cốc chế biến sẵn được bổ sung đầy đủ vi chất dinh dưỡng – đặc biệt là chất sắt nhằm giúp giảm nguy cơ thiếu máu do thiếu sắt

Theo Tài liệu Khuyến nghị dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời dành cho Nhân viên Y Tế – Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội Phụ Sản Việt Nam, Viện Dinh Dưỡng Nestlé Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

[3] Bộ Y Tế – Viện dinh dưỡng Quốc gia (2016). Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam. Nhà xuất bản Y học.

[10] Văn phòng IMCI Trung ương (2016). Hướng dẫn lồng ghép chăm sóc các bệnh thường gặp ở trẻ em: các hướng dẫn nuôi dưỡng trẻ.

[27] Home Fortification of Foods With Multiple Micronutrient Powders for Health and Nutrition in Children Under Two Years of Age (Review). PubMed Journals. https://ncbi.nlm.nih.gov/labs/articles/23878126/. Accessed January 20, 2017.

[28] Homepage. 1,000 Days. http://thousanddays.org/. Accessed February 1, 2017.

[34] The 1,000-day Window of Opportunity: Technical Guidance Brief. https://www.usaid.gov/whatwe-do/global-health/nutrition/1000-day-window-opportunity. Accessed January 15, 2017.

[40] WHO | Essential Nutrition Actions. WHO. http://www.who.int/nutrition/publications/infantfeeding/essential_nutrition_actions/en/. Accessed January 16, 2017.

[41] WHO | Evidence on the long-term effects of breastfeeding. WHO. http://www.who.int/maternal_child_adolescent/documents/9241595230/en/. Accessed January 20, 2017.

[43] WHO | Global Nutrition Targets 2025: Breastfeeding policy brief. WHO. http://www.who.int/ nutrition/publications/globaltargets2025_policybrief_breastfeeding/en/. Accessed January 20, 2017.

]]>
https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-tu-6-24-thang-tai-lieu-danh-cho-nhan-vien-y-te-9952/feed/ 0
Dinh dưỡng cho trẻ từ sơ sinh đến dưới 6 tháng tuổi  [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-tu-so-sinh-den-duoi-6-thang-tuoi-9944/ https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-tu-so-sinh-den-duoi-6-thang-tuoi-9944/#respond Sat, 07 Dec 2019 04:44:03 +0000 https://procarevn.vn/?p=9944 Dinh dưỡng cho trẻ từ sơ sinh đến dưới 6 tháng tuổi  [Tài liệu dành cho nhân viên y tế] 1

Dinh dưỡng tốt là điều tối cần thiết cho sự sống còn, phát triển thể chất, trí tuệ, sức khỏe và hạnh phúc của cả cuộc đời qua các thời kỳ: Bào thai, sơ sinh, thơ ấu cho đến tuổi trưởng thành. Đặc biệt dinh dưỡng tốt còn giúp phòng ngừa các bệnh mạn tính không lây như thừa cân, béo phì, dị ứng [34][35][36].

1. Dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh

1.1. Tiếp xúc da kề da

1.1. Tiếp xúc da kề da 1

Cho trẻ tiếp xúc da kề da với mẹ ngay từ những phút đầu sau khi sinh giúp tăng sự tương tác sớm giữa mẹ và con. Trẻ sẽ không bị hạ thân nhiệt, biết tìm vú mẹ sớm hơn và bú mẹ khỏe hơn.

Các nghiên cứu cho thấy các trẻ được tiếp xúc da kề da với mẹ ngay sau sinh thì ít khóc hơn so với các trẻ được nhân viên y tế chăm sóc, các bà mẹ cũng cảm thấy dễ dàng cho con bú mẹ hơn trong những tháng đầu sau sinh, thời gian cho bú mẹ cũng lâu hơn, các bà mẹ cũng ghi nhận trẻ gần gũi với mẹ hơn. [1][2]

1.2. Kẹp và cắt dây rốn muộn giúp trẻ giảm thiếu máu và thiếu sắt

1.2. Kẹp và cắt dây rốn muộn giúp trẻ giảm thiếu máu và thiếu sắt 1

Nghiên cứu về sinh lý trẻ sơ sinh cho thấy, trong phút đầu tiên sau sinh lượng máu truyền từ bánh nhau sang trẻ sơ sinh khoảng 80 ml và có thể lên tới 100 ml trong 3 phút sau sinh. Lượng máu tăng thêm này có thể cung cấp một lượng sắt tương ứng 40-50mg/ kg cân nặng của trẻ, cùng với lượng sắt của cơ thể (khoảng 75mg/kg cân nặng) có thể ngăn ngừa được thiếu máu thiếu sắt trong năm đầu.

Các nghiên cứu cũng cho thấy nếu kẹp cuống rốn đúng thời điểm, một lượng máu từ bánh nhau qua dây nhau sẽ giúp trẻ đủ tháng không bị thiếu máu thiếu sắt trong những tháng đầu và đặc biệt ở trẻ non tháng không bị thiếu máu cũng như giảm tỷ lệ xuất huyết não do giảm prothrombin.

Tổ chức Y tế Thế Giới – WHO đã khuyến cáo nên kẹp cắt dây rốn muộn (khi dây rốn ngừng đập hoặc 1-3 phút sau sổ thai) cho tất cả các trường hợp sinh thường để ngăn ngừa tình trạng thiếu máu của trẻ. Chỉ kẹp dây rốn sớm (trước 01 phút) đối với trường hợp trẻ ngạt đòi hỏi hồi sức tích cực. [1][2]

1.3. Bú mẹ sớm

1.3. Bú mẹ sớm 1

Cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh, cho trẻ bú mẹ hoàn toàn và không cho trẻ ăn hay uống bất cứ một thực phẩm hay thức uống nào khác.

Với trẻ sơ sinh, sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tuyệt vời nhất mà bà mẹ có thể cung cấp cho trẻ, giúp trẻ tăng trưởng tối ưu, phát triển trí não và tăng cường miễn dịch. Cho trẻ bú mẹ ngay trong giờ đầu sau sinh là vô cùng quan trọng, giúp trẻ giảm nhiễm trùng và giảm 22% nguy cơ tử vong sau sinh.

Sữa non có tác dụng bảo vệ trẻ sơ sinh giảm nhiễm trùng giống như một vắc-xin đầu tiên của trẻ. Sữa mẹ chứa tất cả các dưỡng chất như chất đạm, chất béo, chất bột đường, vitamin, khoáng chất và các yếu tố vi lượng mà trẻ sơ sinh cần để phát triển khỏe mạnh với lượng cần thiết cho nhu cầu theo từng độ tuổi của bé. Hàm lượng các chất dinh dưỡng của sữa mẹ thích ứng một cách chính xác với nhu cầu của bé trong suốt quá trình phát triển.

Những giọt sữa mẹ đầu tiên được gọi là sữa non (4-5 ngày đầu sau khi sinh) có thành phần khác hơn so với sữa chuyển tiếp (từ ngày thứ 5 đến 2 tuần sau sinh) hoặc sữa trưởng thành (sau hai tuần). Sữa mẹ giúp trẻ dễ tiêu hóa hơn vì chứa nhiều đạm whey (60%-70%), loại đạm hòa tan dễ tiêu hóa, dễ hấp thu; trong khi đó, sữa bò chứa thành phần đạm casein cao nên khó tiêu hóa.

1.3. Bú mẹ sớm 2

Ngoài ra sữa mẹ còn cung cấp kháng thể giúp tăng cường miễn dịch cho trẻ: Khi cho trẻ bú sữa mẹ, bà mẹ đã chia sẻ với trẻ một phần hệ miễn dịch của mẹ thông qua các kháng thể có trong sữa mẹ. Đây là điều tuyệt vời cho trẻ vì hệ thống phòng vệ tự nhiên của trẻ chưa hoàn thiện và chưa được huấn luyện đầy đủ khi mới sinh. Ngoài các dưỡng chất cần thiết giúp bảo vệ trẻ, sữa mẹ còn chứa các vi sinh vật có lợi probiotics (bifidobacteria và lactobacilli), rất quan trọng cho sự phát triển của hệ vi khuẩn đường ruột khỏe mạnh và hệ thống miễn dịch của trẻ.

Nuôi con bằng sữa mẹ là một bước cần thiết cho sự phát triển và tăng cường khả năng miễn dịch tự nhiên của trẻ ngay từ những ngày đầu tiên khi chào đời. Ngoài ra, trẻ được bú sữa mẹ kéo dài còn giảm nguy cơ thừa cân, béo phì, bệnh tim mạch và một số bệnh chuyển hóa như đái tháo đường.

Tuy nhiên, với những trẻ sơ sinh không được bú mẹ hoặc không đủ sữa mẹ do nhiều nguyên nhân khác nhau, sữa từ ngân hàng sữa mẹ hoặc sữa công thức dinh dưỡng với đạm chất lượng (hàm lượng đạm vừa đủ, chất lượng đạm cao, đạm whey thủy phân một phần) có thể giúp trẻ có được dinh dưỡng tối ưu, giúp trẻ tăng cân khỏe mạnh, giảm nguy cơ thừa cân, béo phì và và phòng ngừa nguy cơ dị ứng sau này [1][2][9][18][38] [41][48][49].

Sữa mẹ không những chứa các dưỡng chất đã được biết đến như chất đạm, chất béo, chất bột đường, vitamin và chất khoáng – là những chất cần thiết cho sự tăng trưởng của cơ thể – mà còn chứa một thành phần hấp dẫn khác, được gọi là “Các Oligosaccharide trong Sữa mẹ” hay HMOs (Human Milk Oligosaccharides).

Các HMOs này là thành phần chất rắn nhiều thứ 3 trong sữa mẹ, chiếm đến 15% lượng chất khô, bao gồm các cấu trúc đa dạng có tính trung tính hoặc có tính axit và một số dạng được sialyl hóa hoặc fucosyl hóa nhưng thật đáng ngạc nhiên là chúng không cung cấp năng lượng!

Trẻ nhũ nhi nhận một lượng lớn các HMOs từ sữa mẹ với tiềm năng cao tác dụng tại chỗ trong đường tiêu hóa và các chức năng hệ thống. Trong phân và nước tiểu của trẻ có HMOs và các sản phẩm thoái biến, điều này phản ánh một phần loại oligosaccharide đặc hiệu cho sữa mẹ.

Các HMOs rất đa dạng, có hoạt tính sinh học giúp điều hòa một cách có lợi hệ vi sinh đường ruột, thúc đẩy sự phát triển của ruột ở trẻ nhũ nhi. HMOs bảo vệ trẻ nhũ nhi khỏi các bệnh nhiễm trùng như: Giảm tiêu chảy nhiễm trùng, giảm nhiễm trùng đường hô hấp dưới cũng như giảm sử dụng kháng sinh và làm chậm khởi phát chàm dị ứng ở trẻ sinh mổ.

HMOs còn kích thích sự trưởng thành của hệ miễn dịch và có khả năng phát triển thần kinh.

Chúng ta đã thấy rằng HMOs là thành phần độc nhất vô nhị trong sữa mẹ, thật đáng ngạc nhiên là HMOs hiện diện với số lượng lớn trong sữa mẹ nhưng không cung cấp năng lượng, điều này khiến chúng ta tự hỏi vậy vai trò thực sự của HMOs là gì? Cách đây không lâu, các nhà khoa học – những người trước đó đã né tránh bí ẩn này – nay đã tiết lộ rằng HMOs đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ hệ miễn dịch của trẻ, nhờ vậy mà bảo vệ được trẻ trong giai đoạn rất dễ bị tổn thương, khi chức năng của hệ miễn dịch chưa hoàn thiện. HMOs giúp huấn luyện hệ miễn dịch phát triển để hoàn thiện chức năng.

Vậy thì HMOs có vai trò gì?

HMOs giúp tăng cường miễn dịch theo 4 cách:

  1. Thiết lập & phát triển hệ vi sinh đường ruột
  2. Ngăn chặn các tác nhân gây bệnh
  3. Tăng cường chức năng của hàng rào niêm mạc ruột
  4. Huấn luyện hệ miễn dịch phát triển. [52]
Với những trẻ sơ sinh khỏe mạnh, hãy kẹp rốn muộn (khi dây rốn đã ngừng đập hoặc 1-3 phút sau sinh, cho trẻ tiếp xúc với da kề da với mẹ ngay sau sinh trong ít nhất 1 giờ đầu và khuyến khích bà mẹ nhận biết các dấu hiệu sẵn sàng bú mẹ của trẻ. Cho trẻ bú sữa mẹ sớm trong vòng một giờ đầu sau sinh, cho trẻ bú mẹ hoàn toàn và không cho trẻ ăn hay uống bất cứ một thực phẩm hay thức uống nào khác. Cán bộ y tế có thể giúp đỡ bà mẹ cho trẻ bú mẹ nếu cần thiết; bà mẹ uống 1 liều vitamin A 200.000IU trong vòng 1 tháng sau sinh.  

2. Dinh dưỡng cho trẻ từ 1 đến dưới 6 tháng

2. Dinh dưỡng cho trẻ từ 1 đến dưới 6 tháng 1

Bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu đời có tác dụng bảo vệ tối đa cho trẻ, giúp phòng ngừa suy dinh dưỡng, bệnh tật và tử vong. Những trẻ bú mẹ hoàn toàn sẽ giảm nguy cơ mắc các bệnh có thể gây tử vong như tiêu chảy, nhiễm trùng tai, bệnh lý mũi họng và viêm phổi.

Trong 6 tháng đầu trẻ chỉ cần bú mẹ hoàn toàn mà không cần phải bổ sung bất kỳ chất lỏng, sữa hay các thức ăn khác kể cả nước. Sữa mẹ là tất cả những gì một đứa trẻ cần để tồn tại và tối ưu hóa sự phát triển. Ngoài ra, việc cho trẻ uống nước, chất lỏng hoặc các loại thực phẩm khác có thể mang mầm bệnh cho trẻ, làm cho trẻ giảm bú sữa mẹ, dẫn đến bệnh tật và suy dinh dưỡng.

Cần cho trẻ bú mẹ thường xuyên, liên tục, cả ngày lẫn đêm theo nhu cầu của trẻ, ít nhất 8 cữ mỗi ngày. Không nên cho trẻ sử dụng bình bú cũng như các núm vú nhân tạo

Đối với trẻ từ 4 đến dưới 6 tháng tuổi, chỉ cho ăn thêm khi thấy trẻ:

+ Vẫn còn đói sau mỗi bữa bú hoặc

+ Không tăng cân theo chuẩn tăng trưởng của Tổ Chức Y tế Thế giới WHO

* Nếu vì lý do nào đó mà trẻ không được bú mẹ hoàn toàn, có thể cho trẻ uống sữa công thức dinh dưỡng khởi đầu phù hợp với độ tuổi của trẻ (từ 0-6 tháng tuổi), ưu tiên dùng sữa công thức đạm chất lượng (hàm lượng đạm gần với sữa mẹ, chất lượng đạm cao (tỉ lệ đạm whey/casein là 70/30 hay 60/40 như trong sữa mẹ) giúp trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, tăng cường sức đề kháng, tăng cân khỏe mạnh từ đó giúp trẻ phòng ngừa nguy cơ thừa cân, béo phì.

Ngoài ra, việc sử dụng sữa công thức dinh dưỡng đạm whey thủy phân một phần giúp có thể giúp trẻ tăng cường sức đề kháng, giảm nguy cơ dị ứng sau này, góp phần giúp trẻ phát triển toàn diện, khỏe mạnh dài lâu [3][13][40].

Không nên cho trẻ bú sữa bằng bình bú mà nên sử dụng cốc thìa (ly, muỗng) hợp vệ sinh.

Trẻ nhũ nhi từ 1 đến 6 tháng tuổi cần được bú mẹ hoàn toàn để được tăng trưởng tối ưu, giúp trẻ phát triển toàn diện về thể chất và trí tuệ. Nếu trẻ không được bú mẹ hoàn toàn thì sản phẩm dinh dưỡng công thức có đạm chất lượng gần với sữa mẹ (hàm lượng đạm vừa đủ, chất lượng đạm cao, đạm Whey thủy phân một phần) sẽ giúp trẻ dễ tiêu hóa, dễ hấp thu, tăng cường sức đề kháng, tăng cân khỏe mạnh và phòng ngừa thừa cân, béo phì cũng như giúp giảm nguy cơ dị ứng.  

Theo Tài liệu Khuyến nghị dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời dành cho Nhân viên Y Tế – Hội Nhi khoa Việt Nam, Hội Phụ Sản Việt Nam, Viện Dinh Dưỡng Nestlé Việt Nam

Tài liệu tham khảo:

[1] Bộ Y Tế – Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em (2014). Hướng dẫn chuyên môn chăm sóc chăm sóc thiết yếu bà mẹ, trẻ sơ sinh trong và ngay sau đẻ.

[2] Bộ Y Tế – Vụ Sức khỏe Bà mẹ-Trẻ em (2016). Hướng dẫn chuyên môn chăm sóc chăm sóc thiết yếu bà mẹ, trẻ sơ sinh trong và ngay sau mổ lấy thai.

[3] Bộ Y Tế – Viện dinh dưỡng Quốc gia (2016). Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam. Nhà xuất bản Y học.

[9] Tổ chức Y tế Thế giới- Văn phòng khu vực tây Thái Bình Dương (2014). Chăm sóc sơ sinh thiết yếu, cẩm nang thực hành lâm sàng bỏ túi.

[13] Action – 10 tips on proper nutrition for period 2013–2020 (Vietnamese: 10 Lời khuyên dinh dưỡng hợp lý đến năm 2020) – Dietary goals and food-based dietary guidelines – All population groups|Infants and young children|Preschool-age children (Pr… | Global database on the Implementation of Nutrition Action (GINA). https://extranet.who.int/nutrition/gina/en/node/24412. Accessed January 16, 2017.

[18] Breast Milk Protein | First 1000 Days Nutrition | SMA Baby. https://www.smababy.co.uk/breastmilk-protein-and-first-1000-days/. Accessed January 16, 2017.

[34] The 1,000-day Window of Opportunity: Technical Guidance Brief. https://www.usaid.gov/whatwe-do/global-health/nutrition/1000-day-window-opportunity. Accessed January 15, 2017.

[35] The first 1,000 days. Nutricia Research. http://www.nutriciaresearch.com/early-life-nutrition/ thousand-days/. Accessed January 16, 2017.

[36] Thurow, R. (2016). The First 1,000 Days: A Crucial Time for Mother and Children — And The World. New York: Publi- cA airs.

[38] Walker A. Breast Milk as the Gold Standard for Protective Nutrients. J Pediatr. 2010;156(2):S3- S7.

[40] WHO | Essential Nutrition Actions. WHO. http://www.who.int/nutrition/publications/infantfeeding/essential_nutrition_actions/en/. Accessed January 16, 2017.

[41] WHO | Evidence on the long-term effects of breastfeeding. WHO. http://www.who.int/maternal_child_adolescent/documents/9241595230/en/. Accessed January 20, 2017.

[48] WHO | Newborn nutrition. WHO. http://www.who.int/maternal_child_adolescent/topics/newborn/nutrition/en/. Accessed February 1, 2017.

[49] WHO | Short-term effects of breastfeeding: a systematic review on the benefits of breastfeeding on diarrhoea and pneumonia mortality. WHO. http://www.who.int/maternal_child_adolescent/documents/breastfeeding_short_term_effects/en/. Accessed January 20, 2017.

[52] The Nest 40: Human Milk Oligosaccharides https://www.nestlenutrition-institute.org/resources/ publication-series/publications/article/human-milk-oligosaccharides

 

]]>
https://procarevn.vn/dinh-duong-cho-tre-tu-so-sinh-den-duoi-6-thang-tuoi-9944/feed/ 0
Sinh con năm một – Chưa kịp thấy sung sướng gì đã gặp bất lợi trăm bề https://procarevn.vn/sinh-con-nam-mot-8606/ https://procarevn.vn/sinh-con-nam-mot-8606/#respond Mon, 28 Jan 2019 03:37:15 +0000 https://procarevn.vn/?p=8606 Sinh con năm một – Chưa kịp thấy sung sướng gì đã gặp bất lợi trăm bề 1

Nhiều gia đình quan niệm sinh con dày cho vui nhà vui cửa, hoặc đẻ lâu thì ngán việc chăm con nên cực một lần cho cực luôn để chăm cho tiện, đẻ nhiều con một lúc để có thời gian chơi cho hết thanh xuân… Nhiều hội nhóm các bà mẹ đã được lập ra để chia sẻ kinh nghiệm đẻ dày, kinh nghiệm sinh 2 bé liền nhau để cùng động viên, khuyến khích nhau. Thế nhưng, ý kiến của các bác sĩ về vấn đề này như thế nào?

Khi nào nên sinh con tiếp theo

Sau khi sinh thường (đẻ thường), con đủ tháng và đã được ít nhất một năm thì bạn mới nên có thai lần nữa. Đối với trường hợp sinh mổ trong lần trước, nếu mang thai lại ngay thì càng nguy hiểm vì vết sẹo chưa ổn định, có thể dẫn đến biến chứng rạn, nứt vết mổ cũ. Nhiều trường hợp phải chấm dứt thai kỳ giữa chừng bởi việc nứt vết mổ sẽ nguy hiểm đến cả tính mạng người mẹ. Vì vậy đối với trường hợp sinh mổ thì ít nhất là 2  – 3 năm mới nên có thai lần nữa. Đó là khoảng cách tối thiểu để người mẹ phục hồi sức khỏe ở điều kiện thuận lợi (có cuộc sống gia đình êm ấm, được nuôi dưỡng tốt, không có stress tâm trí, cảm xúc).

Thông thường, tốt nhất 2 lần sinh nên cách nhau 3 – 5 năm. Tuy nhiên nếu người mẹ phải vất vả nuôi con và còn nhiều dấu hiệu mỏi mệt thì thời gian có con tiếp theo nên xa hơn nữa, cho đến khi mẹ hoàn toàn khỏe mạnh hãy nên có thai tiếp.

Sinh con quá gần có nguy cơ gì cho mẹ và con

Sinh con quá dày cơ thể người mẹ dễ bị thiếu máu, tăng huyết áp, tiền sản giật, đái tháo đường… trong thời gian mang thai và cả những khó khăn khi chuyển dạ, hay gặp nhất là cơn co yếu, chuyển dạ kéo dài. Ở các thế hệ trước, nhiều bà mẹ sinh con quá cận kề nhiều lần là nguyên nhân gây ra nhiều tai biến khi mang thai và khi chuyển dạ cho cả mẹ và con.

Khi sinh con, các dưỡng chất trong cơ thể người mẹ như omega 3, canxi, máu, chất dinh dưỡng… bà mẹ đã chuyển qua con khá nhiều trong thời kì mang thai, cần có thời gian để hồi phục lại. Khi cơ thể chưa phục hồi tốt mà lại có bầu tiếp thì lần thai sau người mẹ đã mất đi một số chất rồi nên dễ gây mệt mỏi, yếu. Em bé sau có thể thiếu chất hơn em bé đầu. Ví dụ như khi mang thai, cơ thể mẹ bầu không được bổ sung đầy đủ Omega 3 thai nhi sẽ lấy nguồn Omega 3 dự trữ trong cơ thể của mẹ, nguồn dự trữ này nằm ở não và nếu bị thiếu hụt sẽ bị mất đi 3% tế bào não. Người mẹ phải cần ít nhất 4 năm để phục hồi với một chế độ dinh dưỡng khoa học và đủ chất.

Xem thêm: Bổ sung Omega 3 cho bà bầu như thế nào

Hiện nay trình độ dân trí tốt hơn rất nhiều nên hầu hết các bạn đều quan tâm là cần chuẩn bị làm sao để thai kỳ tốt nhất. Phụ nữ hiện nay thường lớn tuổi mới lập gia đình, chính vì vậy mà lớn tuổi mới sinh con. Khi lớn tuổi, những chất oxy hóa trong cơ thể cao lên, khả năng có bầu kém. Và lúc có thai, thai bám dính không tốt dễ dẫn đến sảy thai, sinh non, tỷ lệ dị tật tăng lên khoảng 25 lần so với người mang thai dưới 35 tuổi.
Để hạn chế được những nguy hiểm vừa nêu ở trên bạn có thể bổ sung các vitamin và khoáng chất từ thuốc bổ. một trong những thành phần các bạn cần chú ý là Omega 3, DHA. Đây là một acid béo không no rất cần thiết, là thành phần quan trọng nhất của não bộ của trẻ, chiếm 97% acid béo không no của não, 93% acid béo không no của võng mạc. Như vậy não và võng mạc rất cần DHA. Ngoài ra nó là thành phần có thể giúp cho thai bám dính tốt vào tử cung và mang lợi ích cho bé là phát triển các giác quan, nhận thức của trẻ tốt, chuẩn bị cho thai kỳ khỏe mạnh và ra đời những em bé thông minh.

Tình trạng thai của những bà mẹ sinh con quá gần nhau phụ thuộc nhiều vào sức khỏe và bệnh lý của người mẹ, thường gặp nhất là thai kém phát triển, nhẹ cân so với tuổi thai, chết lưu hoặc nhiều sự cố khác xảy ra trong tiến trình chuyển dạ như suy thai, tử vong khi đẻ ra, tỷ lệ phải mổ lấy thai tăng…

Về tình trạng sức khỏe của bé sau, nếu sinh bé thứ hai dưới 2 năm thì tỷ lệ nguy cơ ốm đau, bệnh tật và tử vong của bé sẽ cao hơn. Ngoài ra, sinh con sớm cũng sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc con cái, đặc biệt là phục hồi sức khỏe người mẹ. Do đó, khoảng cách an toàn để mang thai lần tiếp theo thông thường khoảng 3 – 5 năm.

Đặc biệt, nếu bạn mang thai trong thời gian cho bé bú thì có nhiều nguy cơ tiềm ẩn, gây nguy hại cho cả ba mẹ con.

Mang thai trong thời gian đang cho con bú thì có những nguy cơ gì

Nên tránh mang thai khi còn đang cho con bú vì bạn sẽ gặp phải những vấn đề sau

Mỗi một phản xạ bú của em bé sẽ kích thích cơ thể người mẹ tiết ra chất Oxytocin, chất này gây co bóp cơ tử cung, có thể dẫn tới sảy thai. Do đó nếu mẹ đang cho bé bú mà biết mình có bầu thì các bạn nên cai sữa và chuyển em bé sang dùng sữa ngoài. Bú mẹ là một trong những yếu tố làm gò tử cung gây sảy thai. Do đó, cho con bú khi đang mang thai là việc làm không được các bác sĩ sản khoa khuyến khích. Bởi nó tiềm ẩn nhiều nguy cơ đối với thai kỳ.

Trong trường hợp cai sữa, mẹ cũng nên cắt giảm một cách từ từ, chẳng hạn như làm thưa dần các cữ bú mẹ để bé làm quen với sự thiếu vắng sữa mẹ. Bên cạnh đó, cách này cũng giúp tránh sự xáo trộn, thay đổi quá lớn của các hormone trong cơ thể người mẹ.

Cơ thể mẹ dễ bị suy nhược khi vừa mang thai, vừa cho con bú:

– Cảm giác đau đầu vú: do thay đổi nội tiết, đầu vú trở nên nhạy cảm hơn khi mang thai. Việc cho con bú lúc này khiến cảm giác đau đầu vú càng trầm trọng. Cách để vượt qua là cho bé bú từng cữ ngắn, tùy từng độ tuổi của bé mà bạn sắp xếp thời gian bú của bé cho phù hợp.

– Nghén khi mang thai đã là một điều khủng khiếp. Vừa nghén vừa cho con bú khiến tình trạng mệt mỏi, ốm nghén càng trở nên trầm trọng. Cơ thể mẹ dễ bị suy nhược, có thể khiến mẹ ít sữa, mất sữa, không đủ sữa cho bé lớn bú.

Vì vậy, tốt nhất bạn nên tham khảo thêm ý kiến bác sĩ để đảm bảo cơ thể đã sẵn sàng để thụ thai thêm một lần nữa.

Theo Bác sĩ Thanh Hà

]]>
https://procarevn.vn/sinh-con-nam-mot-8606/feed/ 0
Nuôi con bằng sữa mẹ – Những điều tuyệt đối không thể bỏ qua https://procarevn.vn/nuoi-con-bang-sua-me-2-7288/ https://procarevn.vn/nuoi-con-bang-sua-me-2-7288/#comments Wed, 24 Oct 2018 05:09:10 +0000 https://procarevn.vn/?p=7288 Sữa mẹ là thức ăn phù hợp nhất đối với trẻ em, nhất là trong 6 tháng đầu đời. Mặc dù ở Việt Nam tỷ lệ phụ nữ cho con bú mẹ cao (khoảng 90%) nhưng sự hiểu biết vế sữa mẹ còn rất hạn hẹp. Hầu hết chưa phát huy được hiệu quả tối ưu của việc nuôi con bằng sữa mẹ và vấn đề bảo vệ nguồn sữa mẹ còn gặp nhiều khó khăn.

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹ

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 1

Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 6 tháng đầu đời. Thời gian này, trẻ chỉ tiêu hóa tốt sữa mẹ. Sữa mẹ nên là thức ăn đầu tiên của trẻ để giúp hệ tiêu hóa trưởng thành tốt. Nếu nuôi trẻ bằng các loại thức ăn khác (sữa bò, nước cháo, bột khuấy…)  trẻ rất dễ bị rối loạn tiêu hóa gây tiêu chảy. Protein trong sữa bò là một chất lạ đối với cơ thể trẻ, do đó có thể tạo ra phản ứng dị ứng đối với một số ít các trẻ.

Ngoài tính chất chống nhiễm trùng, sữa mẹ còn tránh cho trẻ nhiều bệnh dị ứng sau này như chàm, suyễn… Gần đây, người ta còn nói đến chất lượng tuyệt đối của sữa mẹ đối với trí thông minh của trẻ: khi ra đời, trẻ sơ sinh đã có đủ số tế bào não (~14 tỷ). Trong năm đầu, các dây thần kinh cần được Myelin hóa để giúp não trưởng thành 85%. Muốn Myelin tốt, trẻ cần các chất quan trọng mà chỉ có trong sữa mẹ là: galactose, các acid béo không no chuỗi dài (ALA, DHA, EPA).

Cho con bú làm tăng tình cảm gắn kết giữa mẹ và con. Tình cảm này rất cần để giúp trẻ thích nghi với cuộc sống bên ngoài. Không những thế, cho con bú còn giúp giảm tỷ lệ ung thư vú, cao huyết áp, sơ vữa động mạch … sau này.

Để giúp trẻ thích nghi dần, các thành phần của sữa mẹ cũng thay đổi cả về số lượng và chất lượng trong 2 tuần đầu sau sinh theo thứ tự: sữa non, sữa chuyển tiếp, sữa vĩnh viễn

  • Sữa non: có từ tháng thứ 4 của thai kỳ và tiếp tục đến 6 ngày sau sinh
  • Sữa chuyển tiếp: từ ngày thứ 7 đến ngày 14 sau sinh
  • Sữa vĩnh viễn: từ tuần thứ 3 tới khi thôi cho con bú

Xem thêm:

Tìm hiểu về sữa non

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 2

Sữa non có màu vàng nhạt, đặc. Sữa non là thức ăn đầu tiên của trẻ sơ sinh, bởi vì các thành phần của sữa non phù hợp nhất đối với nhu cầu ban đầu của trẻ.

Sữa non vì đặc nên rất giàu năng lượng, giúp trẻ chống được đói, rét. Sữa non cũng giàu chất diệt khuẩn, giúp trẻ tránh được các bệnh nhiễm trùng (tiêu chảy, viêm phổi, viêm màng não…) Không những phòng chống trước mắt mà lâu dài sau này cũng ít tiêu chảy hay nhiễm bệnh.

Các chất diệt khuẩn trong sữa non gồm có:

  • Lactoferrine có tác dụng hạn chế sử dụng sắt của vi khuẩn, vì vậy hạn chế chúng phát triển
  • IgA kháng khuẩn tại chỗ
  • Lysozyme
  • Tế bào bạch cầu trên 4000/mm3
  • Yếu tố bifidus giúp phát triển Lacto – bifidus và hạn chế phát triển E.Coli của ruột

Các chất diệt khuẩn này giảm đi rất nhanh, từ giờ thứ 2 sau sinh. Do đó, bạn nên nuôi con bằng sữa non của mẹ bằng cách tranh thủ cho con bú càng sớm càng tốt để tận hưởng các chất quý đó.

Ngoài ra sữa non rất giàu Vitamin A, gấp 10 lần so với sữa vĩnh viễn. Bú sữa non sớm, trẻ sẽ có đủ Vitamin A để dự trữ ở gan. Giúp trẻ tăng trưởng tốt, lên cân nhanh.

Nếu vì lý do nào đó mà trẻ không bú mẹ trực tiếp được thì nên vắt sữa cho con bú. Bú mẹ sớm không những có lợi cho con mà cho cả mẹ nữa:

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 3Con sẽ tận hưởng được nguồn sữa non giàu năng lượng, giàu các chất diệt khuẩn

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 4Khi con bú sớm sẽ kích thích tuyên yên của mẹ tiết Prolactin sớm, khiến sữa mẹ mau về.

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 5Con bú sớm, kích thích tuyến vú tiết ra Oxytocin sớm, tác động lên tử cung, giúp tử cung co hồi sớm, mẹ ít hậu sản

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 6Chất Oxytocin tác động lên tế bào cơ trơn, giúp các nang tuyến vú thông sớm, không bị tắc, không gây áp xe vú.

 

Tìm hiểu về sữa vĩnh viễn

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 7

Từ tuần thứ 3, chất lượng và số lượng sữa mẹ dần ổn định. Nếu mẹ sức khỏe bình thường, ăn tốt, không kiêng cữ, tâm lý thoải mái thì lượng sữa trong 24 giờ đạt mức trung bình 750-850ml, có thể đạt tới 2000-3000ml/24h nếu tăng số lần bú lên 12-15 lần/ngày. Bạn có thể yên tâm với việc nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn mà không sợ thiếu sữa cho bé bú.

Số lượng sữa mẹ không phụ thuộc vào kích thước vú mà phụ thuộc chủ yếu vào sự hoạt động của các tuyến vú và động tác bú của trẻ.

Nếu mẹ đủ sữa, con chỉ bú một bên vú, no trong vòng 10-15 phút và ngủ liền khoảng 3h mới dậy đòi bú tiếp. Trong tháng đầu, mỗi ngày trẻ tăng ít nhất 25g, trung bình là 50g, có thể tăng tới 100gam/ngày. Số lần đi tiểu trung bình trên 6 lần.

Nếu không đủ sữa, sau bú trẻ chỉ ngủ được 1-2 giờ. Để đảm bảo cho việc nuôi con bằng sữa mẹ không bị gián đoạn, các bà mẹ nên chịu khó tăng cường số lần cho con bú để đáp ứng đủ nhu cầu cho con. Cho con bú nhiều lần còn giúp kích thích mẹ tăng tiết sữa nhiều hơn. Ngoài tăng số lần cho con bú, mẹ cần thực hiện chế độ ăn uống bổ sung dưỡng chất đầy đủ, uống nhiều nước; giành nhiều thời gian nghỉ ngơi thư giãn, có tâm lý thoải mái… để tăng tạo sữa.

Cố gắng cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu để đảm bảo sự phát triển bình thường về thể chất và trí tuệ của trẻ.

Xem thêm:

Các yếu tố làm giảm tiết sữa, mất sữa

trong quá trình nuôi con bằng sữa mẹ

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 8

Một số yếu tố thường gặp khiến mất sữa, sữa mẹ giảm tiết như:

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 9Cho con bú chậm sau sinh 2-3 ngày, cho con bú càng chậm càng hạn chế sự hoạt động của tuyến vú.

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 10Mẹ có bệnh: suy tim, lao, thiếu máu, suy dinh dưỡng

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 11Mẹ quá trẻ, dưới 18 tuổi, tuyến vú chưa trưởng thành, kém tiết sữa

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 12Mẹ không tăng cân đầy đủ khi mang thai. Chế độ dinh dưỡng sau sinh yếu kém.

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 13Mẹ dùng các loại thuốc ức chế tiết sữa: aspirin, kháng sinh, thuốc chống dị ứng…

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 14Mẹ lao động nặng, tiêu hao nhiều năng lượng không còn đủ cho sự tiết sữa

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 15Mẹ buồn phiền lo âu, suy nghĩ nhiều, stress sẽ hạn chế tiết sữa

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 16Khoảng cách cho bú quá dài, trên 3 giờ làm cho hai vú tức sữa và ngứng hoạt động. Nếu mẹ làm xa nhà, không thể cho con bú, nên vắt sữa bỏ đi hay cho trẻ khác bú 3 giờ/lần. Sau khi cho con bú, nếu còn thừa sữa cũng nên vắt bỏ đi để có sữa mới tốt hơn.

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 17Khi con trên 12 tháng, lượng sữa giảm dần theo thời gian. Nếu trong năm đầu mẹ tiết ra mỗi ngày 1200ml sữa thì sang năm thứ 2 chỉ còn khoảng 500ml, năm thứ 3 còn 200ml.

 

Cách cho con bú

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 18

Trong quá trình nuôi con bằng sữa mẹ, cho con bú đúng cách là một trong những yếu tố rất quan trọng. Sau sinh, nên cho con bú càng sớm càng tốt, tốt nhất trong 30 phút đầu sau sinh để tận hưởng nguồn sữa non chứa nhiều chất diệt khuẩn.

Trước khi cho con bú cần lau qua đầu vú bằng nước sạch, vắt bỏ vài giọt đầu. Nên cho con bú theo nhu cầu, khi nào đói thì bú. Trẻ tự điều  chỉnh giờ ăn tùy theo lượng sữa mẹ nhận được.

Mỗi lần chỉ nên cho bú một bên vú, nếu mẹ nhiều sữa, trẻ không bú hết thì vắt bỏ đi để tuyến vú có thể tạo sữa mới. Tránh tình trạng sữa ứ đọng thành u cục nổi lổn nhổn bên trong vú, dễ gây apxe và làm giảm sự tạo sữa.

Trong 15 ngày đầu, khi tuyến vú chưa hoạt động ổn định, nên cho trẻ bú cả trong đêm. Không nên thay thế bằng sữa bò vì nếu không có động tác bú trong đêm, mẹ sẽ giảm tiết sữa.

Tiêu chí ngậm bắt vú đúng:

  • Cằm chạm vú mẹ
  • Miệng há rộng
  • Môi dưới đưa ra ngoài
  • Quầng vú thấy bên trên nhiều hơn bên dưới

Tư thế mẹ khi cho con bú:

  • Mẹ ở tư thế thoải mái nhất
  • Giữ đầu bé ở vị trí thẳng hàng với thân bé
  • Nâng đỡ được toàn bộ thân trẻ
  • Bụng bé áp sát vào bụng mẹ
  • Miệng bé hướng về vú mẹ

Đánh giá bú hiệu quả:

  • Bú chậm, sâu, thình thoảng nghỉ. Tự động bỏ bú khi no
  • Thời gian bú khoảng 15-20 phút
  • Sau bú ngủ 2-4 giờ
  • Tăng cân đủ 20-30gam/ngày

Nếu trẻ bú có tiếng thở rít, chứng tỏ có hơi vào cùng với sữa. Dạ dày trẻ nhanh chóng đầy, gây ọc sữa sau bú. Có thể tránh ọc sữa bằng cách vác đứng trẻ vài phút và vỗ nhẹ vào lưng trẻ, để trẻ ợ hơi trước khi nằm.

Sau mỗi lần bú nên đặt trẻ nằm nghiêng, để nếu có ọc sữa thì không vào mũi và gây sặc.

Trẻ bú mẹ có phân sền sệt lỏng, ít cái, nhiều nước, vàng sậm có mùi hơi chua, ngày đi 6-8 lần. Một số trẻ bú nhiều, hoặc trong tình trạng tăng kích thích có thể són phân nhiều lần trong ngày (10-12 lần).

Ngoài bú mẹ, nên cho trẻ uống Vitamin D với liều 400IU/ngày liên tục cho tới khi trẻ biết đi.

Không nuôi con bằng sữa mẹ trong các trường hợp

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 19Mẹ mắc bệnh truyền nhiễm, lao tiến triển, HIV, nhiễm trùng cấp nặng, viêm gan B mà đầu vú đang bị nứt rỉ dịch…

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 20Mẹ mắc bệnh mãn tính: ung thư, suy tim, suy thận nặng…

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 21Mẹ đang dùng thuốc có thể bài tiết qua sữa mà gây độc đối với trẻ.

Xem thêm:

Nuôi con bằng sữa mẹ đến bao giờ?

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 22

Sữa mẹ giàu năng lượng với các dưỡng chất phù hợp nhất đối với trẻ. Vì vậy, nên nuôi con bằng sữa mẹ và cho trẻ bú tới khi mẹ cạn sữa. Không nên cai sữa sớm bởi các thức ăn chuyển tiếp như cháo, bột, thịt, rau… không đủ để đảm bảo nhu cầu năng lượng cho trẻ. Sữa mẹ có thể ít khi trẻ được trên 12 tháng nhưng cũng góp phần tích cực bổ sung năng lượng cho con.

Đối vơi trẻ đã biết đi, không nhất thiết phải cho trẻ bú nhiều lần. Có thể cho trẻ bú đêm, trước khi đi ngủ hoặc sáng trước khi dậy, còn trong ngày nên để trẻ ăn các thức ăn đặc như người lớn. Tùy theo sức khỏe và tính chất công việc của mẹ mà thời gian cai sữa có thể từ 18-24 tháng.

Sữa mẹ tuy giàu năng lượng nhưng từ tháng thứ 5, 6 trở đi không đủ cung cấp các chất cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ. Vì vây, ngoài những bữa bú mẹ, nên cho trẻ ăn thêm các thực phẩm bổ sung như: bột, thịt, trứng, cá, đậu, rau củ, trái cây…

 

Một số lưu ý khi nuôi con bằng sữa mẹ

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 23

Đối với mẹ đang cho con bú:

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 24Tránh các lo lắng, buồn phiền vì đó là yếu tố làm giảm sữa mẹ

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 25Tránh lao động nặng

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 26Ăn uống đủ chất, không nên quá kiêng khem. Thực phẩm luôn là nguồn cung cấp dưỡng chất tốt nhất. Ngoài tăng cường chất lượng bữa ăn, mẹ có thể uống thêm sữa, thuốc bổ tổng hợp mỗi ngày.

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 27Uống đủ nước

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 28Một số gia vị: hành, tỏi, cà chua, chocolate có thể làm trẻ khó tiêu và táo bón

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 29Bia, trà… không phải là thức uống lợi sữa

Lợi ích ưu việt của nuôi con bằng sữa mẹSữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất đối với trẻ em, nhất là trong 30Tránh xa rượu, thuốc lá; tránh dùng thuốc xổ, khánh sinh và các loại thuốc có thể qua sữa mẹ

Để có cữ bú thành công cần có sự hợp tác của mẹ và con: mẹ nên cho bú sớm, thời gian các cữ bú cần hài hòa và thỏa mãn cả mẹ và con để tạo cảm giác dễ chịu.

Thời gian trẻ có thể tiêu hóa hết lượng sữa theo nghiên cứu là từ 1-4 giờ. Do đó nhu cầu cữ bú của trẻ thay đổi trong ngày và 90% trẻ tự điều chỉnh cho thích hợp trong 01 tháng đầu đời. Thời gian trẻ bú mẹ phụ thuộc vào sự tự điều chỉnh của trẻ.

Trẻ sinh mổ có thể ngủ nhiều không bú trong 1-4 ngày đầu, sau đó bắt đầu bú nhưng thường chậm hơn so với trẻ sinh thường.

Những ngày đầu tiên nên cho trẻ bú cả hai vú để kích thích xuống sữa, những ngày sau có thể cho bú luân phiên từng bên để kích thích tạo sữa.

Tất cả phụ  nữ đểu có đủ sữa để nuôi con, sở dĩ có trường hợp thiếu sữa là do chưa biết cách cho con bú và bảo vệ sữa mẹ. Sữa mẹ là thức ăn lý tưởng nhất cho trẻ, nhất là trẻ dưới 6 tháng tuổi. Nuôi con bằng sữa mẹ là phương pháp tích cực nhất để phòng bệnh suy dinh dưỡng ở trẻ dưới 1 tuổi và giảm thiếu nguy cơ bị bệnh của mẹ và con sau này.

Theo TS. Hoàng Trọng Kim – Giáo trình Nhi Khoa – Nhà xuất bản Y học

]]>
https://procarevn.vn/nuoi-con-bang-sua-me-2-7288/feed/ 1